Xu Hướng 6/2023 # Lại Chuyện Cúng Bái Ở Các Hang Động Trên Núi Bà Đen # Top 13 View | Apim.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Lại Chuyện Cúng Bái Ở Các Hang Động Trên Núi Bà Đen # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Lại Chuyện Cúng Bái Ở Các Hang Động Trên Núi Bà Đen được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Những người đến hang cúng vái như cặp vợ chồng trẻ này đã góp phần đem đến nguồn thu cho ông Hoa.

Đường lên các hang động nay có phần dễ đi hơn, trên các tảng đá dọc đường có vẽ nhiều mũi tên chỉ hướng đi vừa được sơn lại màu vàng. Chúng tôi bắt gặp một cặp vợ chồng trẻ cũng đang leo lên cùng hướng. Người chồng tên Trung, khoảng 35 tuổi, ngụ Gò Dầu, kể: Bảy tám năm trước, khi còn độc thân anh từng lên đây chơi và từng thấy nhiều người đem heo quay lên hang động để cúng. Anh cũng bắt chước mọi người thành tâm cúng vái nhưng sau đó… chẳng thấy linh nghiệm gì. Nay, nhân dịp đầu năm mới, anh đưa vợ lên núi chơi chủ yếu là cho biết, một phần cũng vì: “Sẵn dịp, vợ tôi đòi lên cúng vái, tôi cũng đi chứ thật tình tôi chẳng tin”- anh Trung nói.

Khi chúng tôi đến, bên trong các hang động còn đang nghi ngút khói hương, trên các bàn thờ có những bình hoa tươi khá sang trọng. Điều đó cho thấy, vẫn thường có người tìm đến đây để cúng kiếng. Đến gần 12 giờ, ông Hoa lững thững leo lên Hàm Rồng. Ông lấy 19 cây nhang ra đốt, quỳ lạy trước tượng “Cậu Bảy” được đặt giữa hang. Sau đó ông lần lượt cắm nhang khắp các bàn thờ trong hang. Cúng xong, người đàn ông gầy gò ấy bắt đầu dạy chúng tôi nghi lễ cúng kiếng ở đây. Ông thắp cho chúng tôi 19 cây nhang và dạy cách quỳ lạy.

Lạy xong, chúng tôi được hướng dẫn đi cắm hết các bàn thờ. Tiếp đến ông Hoa còn dạy cách xin keo. Keo là hai miếng gạch bông, nhỏ bằng ngón tay cái, để sẵn trước bàn thờ “Cậu Bảy”. Ông bảo chúng tôi hãy cầu nguyện điều mình mong ước, rồi cầm hai miếng keo tung lên. Nếu một miếng úp, một miếng ngửa là được. Tôi cũng giả bộ thành tâm cầu nguyện mặc dù chẳng biết cầu cái gì rồi tung keo lên. Kết quả cũng được một miếng sấp, một miếng ngửa. Ông Hoa bảo như vậy là “Cậu Bảy” đã đồng ý.

Như báo Tây Ninh từng nêu trước đây, các hang Gạo, hang Chén, hang Hàm Rồng trên núi Bà Đen đều do những người nông dân làm vườn trên núi tạo ra nhằm có chỗ trú mưa, trú nắng trong quá trình lao động sản xuất. Sau đó, mới dẫn đến tình trạng có người đem tượng thánh thần đến các hang động nhân tạo này bày chuyện thờ cúng, đồng thời thêu dệt nên những câu chuyện nhảm nhí, đầy tính chất mê tín dị đoan để “dụ” những người nhẹ dạ cả tin tìm đến đây cúng kiếng nhằm trục lợi cá nhân.

Trò chuyện với chúng tôi về vấn đề trên, ông Lâm Thanh Sang- Phó Trưởng Công an phường Ninh Sơn, thành phố Tây Ninh cho biết: “Năm trước, xã đã xử lý hai vụ thờ cúng trái phép trên núi. Năm nay, chúng tôi chưa nhận được tin báo cũng như chưa phát hiện gì. Qua phản ánh của phóng viên, chúng tôi sẽ tiến hành kiểm tra vụ việc”.

Bài Văn Khấn Cúng Ở Miếu Bà Chúa Xứ Trên Núi Sam Ở Châu Đốc

Đồ Cúng Tâm Linh Việt xin giới thiệu một bài viết đầy đủ nhất về cùng với toàn bộ sự tích linh thiêng về địa danh nổi tiếng trên dốc núi Sam ở Châu Đốc. Cùng với bài văn khấn bà chúa Xứ để xin Lộc. Nào cùng bắt đầu hành trì đến với Châu Đốc.

Bài văn khấn cúng ở miếu Bà Chúa Xứ trên núi Sam linh thiêng tại Châu Đốc tỉnh An Giang

Bà chúa Xứ Châu Đốc

Châu Đốc cách TP.HCM khoảng 250km, cách TP. Long Xuyên khoảng 55km, là một thị xã trực thuộc tỉnh An Giang, nằm bên ngã ba của sông Châu Đốc và sông Hậu sát biên giới Việt Nam với Campuchia. Thị xã Châu Đốc có chiều dài lịch sử gắn liền với những câu chuyện ly kỳ về Bà Chúa Xứ Núi Sam – nơi có Lễ hội Bà Chúa Xứ vào khoảng tháng Tư âm lịch hàng năm.

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam nằm trên vùng đất trũng phía tây bắc núi Sam, lưng quay về vách núi, chính điện nhìn ra con đường và cánh đồng làng. Kiến trúc có dạng chữ “”quốc””, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng.

Bà Chúa Xứ Núi Sam

Trông từ xa, ngôi miếu như một bông sen xanh ngự uy nghi trên cao để người đời hướng về bái vọng. Lại gần, khách sẽ thấy ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng các hoa văn ở cổ lầu chính điện, thể hiện đậm nét nghệ thuật Ấn Độ. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi ở nơi đây cũng rực rỡ vàng son.

Văn khấn cúng miếu bà chúa Xứ núi Sam

“Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Sứ.

Cúi xin được phù hộ độ trì. Hương tử con là: Ngụ tại:….

Ngày hôm nay là Ngày….. Tháng….. Năm.

Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý. ……. (Muốn gì cầu xin) Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Sứ, cúi xin được phù hộ độ trì.”

-Hết-

Xin lộc bà chúa Xứ

“Ai đi cũng nên xin một BAO LÌ XÌ LỘC BÀ về cho may mắn nha…nói thẳng trong bao có khi là tiền, có khi là tấm áo Bà Mặc cắt ra làm lộc Lộc bà chúa Xứ

– Khi rước lộc về nhà, thỉnh lộc bà lên một cái dĩa, sau đó để 4 ly nước suối kế bên, cầm từng ly lên khấn cung nghinh bà về cư gia, cứ mỗi ly nước ta khấn xong ta chế 4 góc nhà.

– Sau đó trân trọng đặt lên bàn thờ ở Mẹ Quan Âm chứ không nên để chỗ thờ Ông Địa như các nhà thường làm. Sẽ khinh thường bà, mà ông địa ông thần tài năm đó cũng không về được khánh.

– Khi đặt lên thì trong 9 ngày phải thay nước và 3 ngày thay trầu cau 1 lần.

– Sau đó ta có thể bỏ bóp hay để bàn thờ nhưng ta nhớ thường xuyên khấn Bà xin độ cho chúng con. Nếu để bàn thờ thì nên đặt thêm quanh bao lộc đó 5 thứ ngũ cốc.

– Cuối năm ngày 23 âm lịch hóa bao lộc này

Vía Bà Chúa Xứ

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc của cư dân vùng sông nước Nam Bộ. Lễ hội diễn ra từ ngày 22 đến 27- 4 âm lịch, thu hút khoảng 4,5 triệu lượt du khách mỗi năm đến hành hương, dâng lễ cũng như chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên của vùng đất An Giang. Lễ hội được công nhận là lễ hội cấp quốc gia vào năm 2001, được phục dựng lại các nghi thức truyền thống do ban quản trị lăng miếu đảm trách.

Chính lễ của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam diễn ra trong ba ngày, gồm: Lễ Phục hiện rước tượng Bà từ đỉnh Núi Sam xuống Lăng Miếu; Lễ tắm Bà; Lễ Túc yết và Xây Chầu; Lễ Chánh tế; Lễ Hồi sắc,… Trong đó quan trọng nhất là Lễ tắm Bà diễn ra vào khuya ngày 22-4 âm lịch.

Tượng bà chúa Xứ

Như tên gọi, với những đường nét kiến trúc đặc trưng của nền nghệ thuật trầm mặc mà bay bỗng phương đông, ngôi miếu đồ sộ này chỉ thờ độc nhứt một pho tượng cổ. Đó là tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam, có kích thước to hơn người thật (tư thế ngồi, cao 1,65m).

Pho tượng đặt trên một bệ cao, kiên cố, được trang điểm bằng sơn dầu cho tăng thêm thần sắc. Do toàn thân có choàng áo rộng lộng lẫy phủ kín cả tay và chân nên rất ít người được mục kích kiểu thế ngồi của tượng.

Mắt tượng nhìn thẳng về hướng đông, uy nghiêm mà hiền ái, phúc hậu, như chan chứa cả một tấm lòng bao dung, tế độ.

Bà chúa Xứ là ai ?

Hiện nay tồn tại khá nhiều dị bản khác nhau về sự hình thành Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam. Đây được xem là tổ miếu của dạng thức tín ngưỡng này, có qui mô lớn nhất vùng, không chỉ mang ý nghĩa phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của cư dân địa phương, mà còn có ý nghĩa trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua hoạt động du lịch.

Sự tích bà chúa Xứ

Bài viết ngắn này sẽ đề cập đến 4 sựu tích về Ba Chúa Xứ như sau:

Sự tích bà Chúa Xứ Châu Đốc thứ nhất:

Trên núi Sam ngày xưa có một bệ tượng hình vuông bằng đá sa thạch. Vào những năm đầu thế kỷ XIX, giặc Xiêm thường sang khu vực này để quấy nhiễu. Trong một lần lên núi và bắt gặp tượng Bà, họ liền có ý định cậy tượng ra khỏi bệ đá để đem xuống núi. Nhưng kỳ lạ thay tượng trở nên nặng vô cùng, họ không cách nào khiêng được mặc dù có bao nhiêu lính tráng khỏe mạnh.

Trong lúc tức giận, một quân lính người Xiêm đã vớ một khúc gỗ phang vào tượng làm sứt một miếng ở cánh tay. Ngay lập tức người lính Xiêm này hộc máu chết tại chỗ. Sau đó, một hôm dân làng lên núi thấy tượng Bà bèn cùng nhau khiêng tượng về lập miếu thờ. Tuy nhiên, cũng như lần trước, tượng nặng vô cùng, bao nhiêu trai tráng trong làng góp sức nhưng cũng không khiến cho bức tượng xê dịch được.

Lúc đó, bỗng một phụ nữ lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ và phán rằng, muốn thỉnh Bà xuống thì cần phải có 40 cô gái đồng trinh tắm rửa sạch sẽ mới có thể khiêng Bà xuống. Dân làng tin lời và làm theo. Quả thật linh nghiệm; tuy nhiên, đến chân núi Sam thì tượng Bà lại trở nên nặng trịch, không thể khiêng tiếp được nữa. Hiểu được dụng ý của Bà, dân làng liền cho lập đền thờ ở khu vực này.

Sự tích bà Chúa Xứ núi Sam thứ hai:

Kể lại rằng cách đây gần 200 năm, có một cô gái trong làng Vĩnh Tế bỗng lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ về núi Sam để cứu dân độ thế. Bà còn nói thêm là hiện nay, tượng Bà đang ngự trên núi, yêu cầu dân làng lên núi thỉnh về để thờ phụng. Dân làng liền phái 40 chàng thanh niên lực lưỡng lên núi để khiêng tượng, nhưng cũng không thể xê dịch bức tượng. Lúc đó, cô gái lại lên đồng và cho dân làng biết chỉ cần 9 cô gái đồng trinh là có thể khiêng được. Quả thật linh nghiệm; đến chân núi Sam, dây khiêng tượng bị đứt, thế là dân làng hiểu ý Bà mà cho lập miếu thờ Bà ở đây.

Sự tích bà Chúa Xứ thứ ba:

Thì cho rằng, dưới thời Thoại Ngọc Hầu trấn thủ Châu Đốc, đeo ấn bảo hộ Cao Miên, vợ ông (tức là bà Châu Thị Tế) ở nhà thường cầu nguyện cho ông bình an trở về, nếu được thì sẽ lập chùa thờ Phật để báo ân phù hộ. Sau khi Thoại Ngọc Hầu trở về, ông vì cảm kích trước tấm lòng của vợ mình nên đã cho quân lính sang tây Trấn Thành chở cốt Phật về lập chùa để thờ, đặt tên là chùa Tây An. Chùa xây xong, ông lo ngại tin đồn ác ý rằng xây chùa để thờ Phật của giặc nên đưa pho tượng ra ngoài chùa, lập miếu thờ để tránh phiền phức.

Sự tích bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc thứ tư:

Thì kể về việc một thiếu phụ Cao Miên đi tìm chồng, đến chân núi vì quá mệt mỏi nên đã ngồi nghỉ, sau đó bà đã hóa đá ở chân núi này. Sau đó, linh hồn người phụ nữ này nhập vào cốt đồng để nói về quá khứ và tương lai để giúp đỡ những người hiền và trừng phạt những người xấu. Dân làng liền lập miếu thờ và gọi bà là Bà Chúa Xứ.

Lễ hội bà chúa Xứ núi Sam An Giang

Lễ bà Chúa Xứ có thời gian diễn ra lễ hội là từ đêm ngày 23 đến ngày 27 tháng 4 Âm lịch hằng năm. Có hai giả thuyết giải thích lý do tại sao chọn những ngày này làm lễ vía Bà. Hai giả thuyết này khác nhau phụ thuộc vào vấn đề sự ra đời của miếu Bà.

Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc tự bản thân nó là một lễ hội hoàn chỉnh với phần lễ (thể hiện tính chất lễ nghi, tôn nghiêm sùng bái đối tượng chính là Bà Chúa Xứ) và phần hội (phần văn nghệ quần chúng, vui chơi, giải trí của cộng đồng). Tuy nhiên, tùy theo tính chất của lễ hội mà có lễ hội nặng về phần lễ hoặc có lễ hội nặng về phần hội. Theo chúng tôi, lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc nặng về phần lễ nghi hơn. Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc là sự kết hợp của văn hóa nông nghiệp và triết lý âm dương của người Việt. Triết lý âm dương của người Việt thể hiện qua huyền thoại về việc di dời tượng bà từ đỉnh núi Sam Châu Đốc bằng 9 cô gái đồng trinh[2]. Cốt tượng Bà là một người đàn ông mập, lùn, tay chống nẹ ở tư thế ăn quá no [Nguyễn Minh San: 1994]. Không ai thấy khuôn mặt thật của bà trừ những người đầu tiên được cử ra trang điểm cho bà và những người chứng kiến cảnh khiêng tượng bà từ đỉnh núi Sam xuống vị trí điện thờ ngày nay, và không ai trong số họ mô tả lại khuôn mặt thật của tượng bà.

Lễ hội tắm cho bà chúa xứ

Chúng tôi đến Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc nghiên cứu và thông qua một số tài liệu ghi chép, có thể khái quái nghi thức lễ hội vía Bà theo trình tự thời gian và không gian như sau:

Tổ chức vào lúc 24 giờ đêm ngày 23, rạng ngày 24 tháng 4 âm lịch.

Nói là tượng tắm Bà nhưng thực chất là lau bụi bặm bám trên cốt tượng Bà bằng nước thơm được nấu và pha trộn nhiều nước hoa tốt do các tín thí dâng cúng. Lau bụi bặm xong, tượng Bà được thay xiêm y mới, hài mới, mão mới trong một không gian chật hẹp là chánh điện được quây lại và chỉ có những người được Ban quản trị lựa chọn mới được tham gia.

Nước tắm Bà là một loại nước thơm nấu bằng nước mưa hứng ngoài trời với nhiều loại hoa thơm và có thêm nước hoa hàng hiệu thơm ngát. Sau khi đã tiến hành “tắm Bà” xong, một bộ quần áo đẹp nhất dâng cúng trong kỳ lễ hội được khoác lên tượng, thắt dây đai áo và các bộ phận khác, và cuối cùng là đội mão lên đầu tượng Bà.

Toàn bộ “lễ tắm Bà” kéo dài trong khoảng một giờ; sau đó, mọi người được tự do chiêm bái. Cũng cần nói thêm rằng, toàn bộ quá trình mộc dục cho Bà đều được thực hiện sau bức màn che, nhưng có đến hàng nghìn người chen chúc nhau đến để đứng ngoài vòng rào chính điện để xem.

Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà

Lễ này thường được thực hiện vào khoảng 15h00 ngày 24 tháng 4 âm lịch. Các bô lão trong làng được cử ra cùng với Ban quản trị miếu Bà bận trang phục chỉnh tề, nghiêm trang sang thỉnh sắc ở lăng Thoại Ngọc Hầu. Đoàn thỉnh sắc phong có đội múa lân của miếu Bà đi trước, kế đến là ông chánh bái, hai vị bô lão và những chức sắc khác rồi theo sau là học trò lễ với tay cầm cờ phướng. Tới trước điện thờ Thoại Ngọc Hầu, mọi người dâng hoa, niệm hương, tế lễ. Sau đó, họ thỉnh bốn bài vị lên long đình về miếu Bà. Bốn bài vị đó là: bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bài vị của bà chánh phẩm Châu Thị Tế, bài vị của bà nhị phẩm Trương Thị Miệt và bài vị Hội đồng. Lễ túc yết

Lễ này được tổ chức vào 0 giờ ngày 25 và rạng ngày 26 tháng 4 âm lịch. Tất cả các bô lão trong làng và Ban quản trị miếu với lễ phục chỉnh tề, đứng xếp thành hai bên, trước chánh điện. Phía sau các vị ấy là bốn học trò lễ và bốn đào thày. Đứng chính diện với tượng Bà là ông Chánh bái. Lễ vật cúng được chuẩn bị từ trước đó không lâu rất kỹ lưỡng gồm: một con heo trắng đã cạo lông, mổ bụng sạch sẽ, chưa nấu chính; một đĩa đựng ít lông và máu của con heo (ế mao huyết); một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa gạo muối.

Khi cúng, ông Chánh bái và các vị bô lão đến niệm hương trước bàn thờ. Sau khi đánh ba hồi trống gõ và ba hồi chiêng trống, nhạc lễ bắt đầu trỗi lên là lễ dâng hương, chúc tửu và hiến trà. Từng diễn biến của buỗi lễ được hai người xướng lễ (một xướng nội, một xướng ngoại) xướng to lên. Ông Chánh bái đi trước, bốn học trò lễ và bốn đào thày đi theo sau, hướng về phía bàn thờ tổ. Tại đây, ông Chánh bái tự tay rót rượu để học trò lễ đem dâng cúng.

Sau khi dâng hoa và dâng ba lần rượu gọi là chúc tửu, ba lần trà gọi là hiến trà, theo lệnh của người xướng lễ, văn bản tế được mang đến trước bàn thờ và một người trong ban quản trị miếu đọc văn tế. Dứt bài văn tế, ông Chánh bái đốt bài văn tế này, heo cúng sống trên bàn được lật ngửa ra trước khi khiêng đi chế biến.

Lễ xây chầu

Sau lễ túc yết là lễ xây chầu. Lễ này, có mặt hầu như ở tất cả các lễ hội cúng đình ở làng Nam Bộ.

Vào lễ, người xướng nội hô to: “Ca công tựu vị”, tức thì ông Chánh bái ca công liền bước tới bàn thờ đặt giữa võ ca, tay cầm hai dùi trống nâng lên ngang trán, miệng khấn vái râm rang. Trên bàn thờ có chuẩn bị sẵn một tô nước và một nhành dương liễu. Sau khi khấn vái, tô nước được xem là nước thiêng, nước thánh của. Ông Chánh bái ca công cầm nhành dương nhúng vào tô nước rồi vảy xung quanh với động tác ma thuật tựa như mưa rơi với ý nghĩa ban phát năng lượng thiêng xuống cõi trần cầu cho vạn vật sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu. Vừa làm những động tác ấy, ông vừa xướng to:

“Nhất xái thiên thanh (một rảy cho trời xanh).

Nhị xái địa linh (hai rảy cho đất tốt lành).

Tam xái nhân trường (ba rảy cho con người trường thọ).

Tứ xái quỷ diệt hình (bốn rảy cho ma quỷ tiêu tan)”.

Đọc xong, ông Chánh ca công đặt tô nước và cành dương liễu trở lại bàn thờ, ông đánh ba hồi trống và xướng “ca công tiếp giá”, lập tức đoàn hát bội nổi chiêng trống rộ lên và chương trình hát bội bắt đầu. Các tuồng hát chuẩn bị sẵn bắt đầu nhảy vào cuộc, trước là phục vụ, mua vui cho Bà, sau là phục vụ cho bà con tham dự lễ hội thưởng thức. Phần hội thực sự bắt đầu. Lễ chánh tế

Bắt đầu lúc 4 giờ sáng ngày 26 tháng 4 âm lịch. Nghi thức cũng tương tự như lễ cúng túc yết, chỉ khác là thêm một phần nội dung văn tế và có thêm phần “ẩm phước” với ý nghĩa là phần thưởng của Bà ban cho nhân dân mà vị Chánh tế đứng ra nhận lãnh thay. Theo nhà văn Sơn Nam, nghi lễ “thụ tộ” hoặc “ẩm tộ” hưởng tượng trưng lộc của thần, dùng chén rượu đã cúng mà uống, thay cho dân làng: ” ‘ẩm phước’, uống phần rượu trên bàn thờ, cúng nãy giờ, đem xuống cho Chánh tế, Bồi tế uống tượng trưng, rồi “thụ tộ” ăn phần thịt đã cúng, tượng trưng, thường là ăn trái cây (nho, nhãn), ăn và uống thay mặt cho dân làng, như là lộc của thần thánh” [Sơn Nam 2005: tr.359].

Đến 14 giờ chiều ngày 27 tháng 4 lâm lịch, Ban quản trị làm lễ hồi sắc, tức đưa bốn bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bà Châu Thị Tế, bà Trương Thị Miệt và bài vị Ban hội đồng về lại lăng ông Thoại Ngọc Hầu, chính thức kết thúc lễ hội.

Sau lễ mộc dục chính là lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà. Lễ này được tiến hành vào lúc 15 giờ ngày 24; tại miếu Bà, tất cả các bô lão của làng Vĩnh Tế cùng Ban Quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề (áo dài khăn đóng – lễ phục cổ truyền) tập trung đông đủ và xếp thành hai hàng hai bên tượng Bà để chuẩn bị sang lăng Thoại Ngọc Hầu dự lễ thỉnh sắc.

Dẫn đầu đoàn thỉnh sắc là đội múa lân, theo sau là ông Hương lễ bưng khay trầu rượu, học trò lễ đi hai bên, rồi đến hai ông Chánh tế, ba ông Bồi tế, ba ông Chấp kích cùng các bô lão và đại diện dân làng Vĩnh Tế tiếp nối đi theo phía sau. Khi đoàn đến trước lăng Thoại Ngọc Hầu thì các bô lão lần lượt vào dâng hương và xin phép thỉnh bài vị.

Sau đó, đoàn thỉnh bốn sắc (bài vị) lên long đình để về miếu Bà. Bốn bài vị đó bao gồm: Bài vị của Nguyễn Văn Thoại, bài vị của bà Chánh phẩm Châu Thị Tế, bài vị của bà Nhị phẩm Trương Thị Miệt và bài vị của Hội đồng. Khi các bài vị được thỉnh về và an vị trong ngôi chính điện,

Ban Quản trị của miếu Bà dâng hương thỉnh an và phần lễ thỉnh sắc kết thúc. Tuy kết thúc nhưng hàng nghìn người dân từ khắp nơi kéo về dự lễ liên tục cho đến tận đêm khuya và thậm chí là kéo dài cho đến sáng ngày hôm sau. Do vậy, ngày 25 được xem là đông vui nhất trong lễ hội vía Bà – ngày lễ chính của cả mùa lễ hội.

Lễ túc yết được bắt đầu vào lúc 0 giờ ngày 25, rạng sáng ngày 26 tháng 4 Âm lịch. Tất cả các bô lão và Ban Quản trị khu lăng miếu lễ phục chỉnh tề, đứng xếp hàng hai bên tượng Bà. Vật cúng gồm có: Một con heo trắng đã được cạo lông sạch sẽ, chưa nấu chín; một đĩa đựng một ít huyết có chút lông (mao huyết); một mâm xôi; một mâm trái cây, một mâm trầu cau và một đĩa gạo muối.

Toàn bộ lễ vật được bày trên bàn trước tượng Bà. “Vào lễ cúng, ông chánh bái và các vị bô lão đến niệm hương trước bàn thờ. Kế đến là các phần khởi cỗ. Sau khi đánh ba hồi trống và ba hồi chiêng, nhạc lễ bắt đầu nổi lên là lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà… Một người trong Ban quản trị lăng miếu đọc văn tế. Dứt bài văn tế, ông chánh bái đốt văn bản này và một ít giấy vàng bạc; heo cúng trên bàn thờ được lật ngửa ra trước và khiêng đi, phần cúng túc yết đã xong”.

Bà chúa Xứ hiển linh

Sau khi lễ túc yết kết thúc thì diễn ra lễ xây chầu. Lễ vật dâng cúng cũng là một con heo trắng để nguyên con, một mâm xôi và một mâm cỗ đủ món. Tại gian võ ca, những người tham dự ăn mặc chỉnh tề và xếp thành hai hàng. Sai khi ông Chánh tế vái xong thì lấy roi chầu vác lên vai rồi hô lớn “Phụng mạng”.

Sau đó, ông bước ra đặt roi chầu lên khay; sau đó là đến các lễ dâng hương, dâng rượu và trà. Phía bên trái bàn thờ có một tô nước và một cành dương liễu. Ông Chánh tế ca công cầm cành dương liễu đưa ngang trán và khấn vái rồi cầm cành dương liễu nhúng vô tô nước và vẩy nước ra xung quanh; vừa vẩy vừa đọc to câu thần chú:

“Nhất xái thiên thanh” (Thứ nhất, vẩy nước lên trời mong cho trời luôn thanh bình, mưa thuạn gió hòa);

“Nhị xái địa ninh” (Thứ hai, vẩy nước xuống đất, cầu cho đất thêm tươi tốt, mùa màng bội thu);

“Tam xái nhơn trường” (Thứ ba, vẩy nước cho loài người sống trường thọ);

“Tứ xái quỷ diệt hình” (Thứ tư, vẩy nước vào loài quỷ dữ cho chúng bị tiêu diệt).

Đọc xong câu thần chú, ông Chánh bái ca công đặt tô nước, cành dương liễu về lại bàn thờ; sau đó đánh ba hồi trống và xướng “Ca công tiếp giá”, đoàn hát bội “Dạ” một tiếng thật to. Ngay lập tức, đoàn ca công hát bội nổi chiêng trống và chương trình hát bội bắt đầu. “… Tất cả các vở tuồng hát đều là tuồng hay, có ý nghĩa sâu xa, nhưng trong năm buổi diễn bắt buộc phải có vở Thứ ba San Hậu, đào kép phải hát đúng nguyên bản không được tùy tiện sửa đổi

Tiếp theo là lễ chính tế. Lễ được tổ chức trọng thể vào lúc 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 Âm lịch. Chương trình tế lễ này tương tự như nghi lễ cúng túc yết. Sau khi tế lễ chính xong thì có phần lễ tạ Mẫu và các vị thần linh; sau đó chuẩn bị cử hành lễ hồi sắc.

Lễ hồi sắc được cử hành vào buổi chiều ngày 27 (15 giờ). “Ban Quản trị lại tề tựu đông đủ, áo dài khăn đóng (mặc lễ phục cổ truyền) chỉnh tề làm lễ Tôn Vương. Khi đó, ông Chánh tế ca công nhận hàm ấn và gươm lệnh của Hoàng tử trong vở hát bội Thứ ba San Hậu dâng lên bàn thờ bà Chúa Xứ. Sau đó, ông đốt văn xây chầu và chấm dứt phần hát bộ.

Đến khi làm lễ hồi sắc thì chủ lễ thỉnh bài vị Thoại Ngọc Hầu, bài vị hai vị phu nhân và bài vị Hội đồng đưa lên long đình. Rồi đoàn đưa sắc dàn đội hình rước sắc hồi lăng Thoại Ngọc Hầu theo thứ tự giống như rước sắc về miếu hôm mở hội… Nghi lễ hồi sắc là nghi lễ cuối cùng kết thúc lễ hội vía bà Chúa Xứ núi Sam”

Kinh nghiệm đi Chùa Bà Châu Đốc

– Lễ vật: Lễ vật cúng bà được đông đảo người đi hành hương là heo quay, từ đó xảy ra dịch vụ cho thuê heo quay mướn. Du khách đến đây, có thể thuê heo quay được tính bằng Kg, sau khi cúng vái xong thì chú heo quay ấy sẽ trở về vòng quay cho thuê người tiếp theo…liệu như thế bạn chứng tỏ lòng thành của mình hay chỉ là góp phần cho nạn cò heo quay lộng hành??. Do vậy, nếu bạn không thể mang heo quay từ nhà thì tốt nhất là không mua hoặc thuê heo quay tại chùa.

– Hỏi kỹ giá trước khi mua: Dọc đường đi có các trạm dừng, bạn có thể mua hoa, trái cây tại đây, hoặc mua tại các điểm gần phà. Giá ở những nơi này sẽ rẻ hơn giá ở chùa.

Nếu không mua trên đường đi thì nên vào các cửa hàng lớn xung quanh chùa và hỏi kỹ giá cả trước khi mua. Không nên mua nhang đèn từ những người bán lẻ đi theo mời mọc vì ngoài giá đắt hơn. Sau khi mua bạn còn phải tiếp tục “chịu đựng” những người đi theo chèo kéo mua vé số, xin tiền, gửi lộc…

– Ăn xin: Tình trạng ăn xin diễn ra rầm rộ khi ngày lễ diễn ra, đừng nên cho tiền ăn xin vào ngày này nếu như bạn muốn bị hàng chục người ăn xin khác vây bạn như thể bạn là một “ngôi sao”. Mặc khác, tình trạng giả bệnh, giả cụt chân, tay…được biến hóa một cách rất tài tình…lợi dụng tình trạng này mà móc túi, giật đồ diễn ra mà bạn không hay biết.

– Lộc “trời cho”: Bạn đang thẩn thần thành tâm viếng chùa, bỗng một người lạ đến đưa bạn một túi nhỏ trong đó đủ thứ những vật cúng hoặc một tờ giấy 500 đồng được xếp theo đủ kiểu dúi vào tay, túi áo…cho bạn, ngay lập tức hãy trả lại hoặc bỏ mà đi vào chùa nếu như bạn không muốn bị dính vào cảnh người dúi túi lộc đó cho bạn đi theo xin tiền “trả lễ”. Tuy là nói tùy hỷ, nhưng nếu bạn trả lộc ít thì bạn sẽ nhận lại ngay những lời lẽ thô tục.

– Giữ chặt ví tiền: Tháng giêng, miếu Bà Chúa Xứ lúc nào cũng đông khách hành hương. Khi vào khu vực chính điện của miếu, bạn phải hết sức cẩn thận với ví tiền của mình. Khi đi chùa, không nên mang theo nhiều tiền mặt, nếu để trong túi xách thì phải cài chặt và quay túi xách ra phía trước để tránh bị mất cắp.

– Chen lấn: Không thể tránh khỏi khi mà hàng trăm ngàn người đổ về chùa bà cùng lúc. Đây là cơ hội của bọn móc túi rinh tiền, điện thoại, nữ trang của bạn, do đó khi đã viếng bà những ngày này tuyệt đối không nên mang nữ trang trên người, điện thoại và ví tiền nên bỏ vào tùi quần có dây kéo cẩn thận và khó luồng tay vào được.

Xem thêm: Lễ cúng ông Công ông Táo như thế nào cho đúng truyền thống Việt

Đầu Xuân Hành Hương Về Lễ Hội Núi Bà Đen

Truyền thuyết về núi Bà Đen ở Tây Ninh

Nếu như có một lần đặt chân lên mảnh đất Tây Ninh, chắc hẳn bạn không thể không đến vãng cảnh Núi Bà. Đây là ngọn núi cao và đẹp nhất nằm giữa vùng đồng bằng Nam Bộ. Cách thị xã Tây Ninh khoảng 11 km. Hàng năm cứ mỗi dịp xuân về, từ chiều 30 Tết Nguyên Đán cho đến suốt tháng Giêng, tháng 2 âm lịch. Nhiều nhất là vào ngày rằm tháng Giêng. Du khách trong tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh khác ở vùng Nam Bộ đổ về đây hành hương, lễ bái Phật ở lễ hội núi Bà Đen và tham quan, du lịch tấp nập, đông đúc.

ĐẦU XUÂN HÀNH HƯƠNG VỀ LỄ HỘI NÚI BÀ ĐEN Ở TÂY NINH

Núi Bà Đen là ngọn núi rất nổi tiếng thuộc xã Ninh Sơn tỉnh Tây Ninh. Núi nằm cách trung tâm thị xã về hướng Tây Bắc 11km. Đây cũng là ngọn núi rất linh thiêng, thu hút đông đảo người dân lẫn du khách thập phương tìm đến vào mỗi dịp mùa Xuân đầu năm. Mặc dù đa phần người hành hương là người miền Nam. Nhưng trong đó cũng có không ít người dân miền Trung, miền Bắc, họ nghe tiếng linh thiêng mà tìm đến đây để dâng hương lễ Phật.

Có nhiều đường đi lên chùa Thượng núi Bà Đen. Các bạn có thể lựa chọn đi cáp treo, máng trượt hoặc leo núi đều được cả. Tuy nhiên, phần lớn các du khách hiện nay đều chọn đi bộ, đồng nghĩa là họ sẽ phải tự leo hơn cả ngàn bậc thang đá mới có thể tới nơi.

Cho thuê xe du lịch 7 chỗ giá rẻ nhất Sài Gòn

Dịch vụ thuê xe du lịch 16 chỗ giá rẻ tại TPHCM

Cho thuê xe du lịch 29 chỗ giá rẻ uy tín TPHCM

Dịch vụ thuê xe limousine cao cấp giá tốt nhất Sài Gòn

LỄ HỘI NÚI BÀ ĐEN TÂY NINH DIỄN RA KHI NÀO?

Lễ hội núi Bà Đen Tây Ninh chính thức diễn ra từ đêm 18 và ngày 19 tháng Giêng âm lịch hàng năm với rất nhiều người đổ về trẩy hội. Tuy nhiên, thực tế lễ hội kéo dài trong suốt từ chiều 30 tết nguyên Đán đến hết tháng Giêng và cả tháng 2 âm lịch.

CÁC NGHI THỨC CHUẨN BỊ CHO LỄ HỘI NÚI BÀ ĐEN NHƯ THÊ NÀO?

Khác với hội Xuân, hội Vía Bà là lễ hội quan trọng nhất ở trong năm. Tổ chức vào 3 ngày: 4, 5, 6 tháng 5 âm lịch. Hội Vía Bà sẽ khởi đầu bằng lễ Mộc Dục (tắm tượng) tiến hành vào lúc 0 giờ ngày 4 tại điện thờ. Đây là nghi thức trang nghiêm, người bên ngoài không được tham gia, cửa điện được đóng kín, đèn nến cũng tắt gần hết. 6 phụ nữ trung niên trong đó có 3 ni cô của nhà chùa sẽ cử hành nghi thức tắm tượng.

LƯU TRÚ Ở ĐÂU KHI HÀNH HƯƠNG VỀ LỄ HỘI NÚI BÀ?

Nếu các bạn đến từ TP. Hồ Chí Minh. Bạn có thể đi về trong ngày cho nên không cần thuê chỗ lưu trú. Ngược lại, đối với các du khách ở xa đến thì cần phải ngủ lại 1, 2 đêm gần khu vực núi Bà để tiện cho việc di chuyển.

TRẢI NGHIỆM THÚ VỊ TẠI NÚI BÀ ĐEN

Chinh phục ngọn núi cao nhất ở Nam Bộ

Ghé thăm Điện Bà Linh Sơn Thánh Mẫu

NHỮNG LƯU Ý QUAN TRỌNG KHI ĐI LỄ HỘI NÚI BÀ ĐEN TÂY NINH VÀO DỊP ĐẦU XUÂN

Cần cẩn thận bảo quản tư trang, túi xách, đồ dùng, cá nhân, đề phòng bị mất cắp. Bởi vì vào dịp lễ hội sẽ có rất đông người tham gia.

Nên mang giày thể thao, giày chuyên leo núi để đi lại dễ dàng khi tham quan.

Nên mang theo đủ nước uống trong balo cho hành trình di chuyển lên chùa Bà.

Nên mặc trang phục kín đáo. Nếu bạn là phật tử thì cần mặc áo lễ.

Nên sử dụng kem chống nắng, đội mũ nón, thuốc đau bụng, thuốc chống côn trùng đốt, …

Lễ hội núi Bà Đen đang ngày càng trở nên thân thuộc với rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Đặc biệt là với những người yêu thích hành hương, khám phá vẻ đẹp của tạo hóa. Cho dù được tổ chức vào ngày xuân hay mùa khác. Thì lễ hội núi Bà vẫn có sức thu hút đặc biệt đối với nhiều người ở khắp nơi đổ về.

Miếu “Bà Chúa Xứ” Ở Núi Sam

Phát hiện này vào những năm 40 thế kỷ trước, cho thấy nền văn minh đô thị đã có trước công nguyên tại tỉnh An Giang, cũng như hiện nay tỉnh còn được mọi người biết qua dãy Thất Sơn huyền bí cùng miếu Bà Chúa Xứ.

QUẦN THỂ THẤT SƠN HUYỀN BÍ

Nói đến Thất Sơn mọi người đều sẽ có ấn tượng, bởi nơi đây đầy những sự huyền hoặc và kỳ bí, vì gần hai trăm năm nay vùng Thất Sơn đã có nhiều chuyện truyền kỳ lẫn những lời đồn đại, và điều này khiến mọi người mang tính hiếu kỳ luôn luôn tìm đến với dãy Thất Sơn để tìm hiểu.(xem so dien thoai theo phong thuy)

Thực tế quần thể Thất Sơn không chỉ có bảy ngọn núi mà có đến mười hai ngọn. Chúng kết hợp thành một dãy núi nằm về phía tây bắc thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang bây giờ, vì thế mà mọi người còn gọi vùng Thất Sơn là “Năm Non Bảy Núi” để cho thấy dãy núi vẫn có đủ 12 ngọn khác nhau.

Theo địa dư triều đình nhà Nguyễn viết, vùng Thất Sơn có đến 12 ngọn núi, chính Tổng Đốc thành An Giang thời đó đã đặt cho cho các tên núi là : Tà Chiến, Trà Nghịch, Tượng, Thốt, Cà Âm, Năm Sư, Khẻ Lập, Ba Xoáy, Ngất Sung, Nam Vi, Đoài Tôn và Chơn Sum.

Sau này theo thói quen, người dân chỉ gọi có bảy núi chính gồm : Trà Sư, Két, Đài, Tượng, Bà Đội Om, Ông Tô và Cấm Sơn, vì núi Cấm bao gồm những ngọn Ba Xoáy, Ngất Sung, Chơn Sum, Nam Vi và Đoài Tôn, bởi chúng liên kết với nhau. Sở dĩ những ngọn núi này có những tên kể trên, do mọi người căn cứ theo hình dạng của mỏi ngọn mà đặt tên cho dễ kêu, dễ nhớ.

Về tên Bảy Núi (Thất Sơn) như đã giải thích, còn Năm Non là gì ? Theo các vị kỳ lão trong vùng kể lại, cách đây gần hai trăm năm :

– NÚI CẤM (Cấm Sơn) : một trong bảy núi có tiếng là linh thiêng nhất, nơi tập trung các vị chân tu và đạo sĩ. Bởi lẽ Cấm Sơn thời gian trước thế kỷ 19 còn rất hiểm trở, rừng già mịt mù u tịch, thú dữ xê dịch từng đàn và quanh núi có năm vồ (gò) cao đặc biệt, mỏi vồ mang một tên riêng như :

– VỒ BỒ HÔNG : nằm ở hướng tây. Theo lời truyền khẩu từ nhiều đời, trước khi mới phát hiện ra vồ này thì loài Bồ Hông (bò rừng cao lớn hơn bò nhà) sinh sống ở đây rất đông, nên mọi người mới đặt tên là vồ Bồ Hông.

– VỒ ĐẦU : nằm về hướng tây bắc, đi theo ngã chợ Thum Chưn lên, có lẽ lúc mới lên núi thấy ngay vồ này trước mắt, nên được đặt là Vồ Đầu là vậy.

– VỒ BÀ : người Việt gốc Khmer thường gọi vồ là Phụm Barech, trước đây thờ bà Chúa Xứ, nằm về hướng nam.(so dien thoai phong thuy)

– VỒ ÔNG BƯỚM : nằm phía bắc Cấm Sơn. Ngày xưa người ta thấy mỏi buổi sáng tinh sương, từ trong hang đá có một bầy bướm khồng lồ bay ra như một đám mây bay vào vùng rừng rậm.

Không biết đàn bướm ấy bay đến đâu nhưng chiều tối thì chúng lại bay trở về hang đá ấy. Dân đi rừng tìm củi thấy vậy nên tò mò tụ đến xem làm xôn xao cả vồ, khiến đàn bướm bay đi mãi không về hang động này nữa. Vì lẽ đó mà người ta đặt tên là Vồ Ông Bướm hay còn gọi là Điện Bướm.

– VỒ THIÊN TUẾ : vồ cuối cùng nằm ở phía đông, người Khmer gọi vồ là Phụm Pra Péal, nơi đây có rất nhiều cây thiên tuế, có cây sống trên vài trăm năm rất to lớn xum xuê.

Còn thời nhà Nguyễn tên năm vồ này là Ngất Sung, Ba Xoáy, Nam Vị, Đoài Tôn, Chơn Sum.

Núi Cấm chỉ cao trên 780 mét, còn chiều dài đến gần 7,5 km và rộng 6,5 km, nằm giữa 4 thôn Vĩnh Trung, Thuyết Nạp (tổng thành Ý, huyện Tịnh Biên), Nam Qui (tổng thành Lễ) và Châu Lang (Long Thành Ngãi, huyện Tri Tôn) núi nằm giữa 2 núi Bà Đội Om và núi Đài.

Theo giả thuyết, tên núi Cấm (Cấm Sơn) được mọi người hiểu như sau :

– Nhiều người cho rằng, núi này vào thế kỷ 19 có tên Thiên Cẩm Sơn (tức Gấm Nhà Trời), còn dân làng mộc mạc đọc trại theo giọng địa phương là Thiên Cấm Sơn (tức Trời Cấm Vào Núi). Sau đọc gọn chỉ còn Cấm Sơn.

– Còn những người sống vào thời kỳ Nguyễn Ánh – Tây Sơn cho biết : khi chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu tránh quân Tây Sơn vào núi ẩn mình, Chúa Nguyễn đã cấm dân lên núi nên dân chúng gọi là núi Cấm.

Giả thuyết nào cũng có cái lý đúng, nhưng chắc chắn tên núi Cấm có từ cuối thế kỷ 19 cho đến nay.(xem tu vi so dien thoai)

CHÙA TÂY AN

Khi nói đến Thất Sơn là nói đến dãy núi nằm sát biên giới nước Campuchia, và không ai không biết đến núi Sam (trước đây tên Vồ Bà), núi cao chừng 250m, nơi có chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu và miếu Bà Chúa Xứ nằm trên một trục đường chính, và có những liên hệ gắn liền nhau. Hằng năm vào ngày 24 tháng 4 ÂL là ngày vía Bà Chúa Xứ.

Ở núi Sam còn có tháp Phái và chùa Phước Điền, tạo nên một quần thể di tích văn hóa, tín ngưỡng thờ Phật và Thần của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Chùa Tây An trên đường đi đến miếu Bà Chúa Xứ, có nhiều điển tích, và có nhiều cách giải thích ai đã xây dựng chùa. Những điển tích đó như sau :

– Thoại Ngọc Hầu vâng lệnh vua Minh Mạng và Quan Tổng trấn Gia Định thành tức Tả quân Lê Văn Duyệt, qua Cao Miên “bảo hộ đất trấn Tây”. Ở quê nhà, vợ ông là bà Châu Thị Tế đêm ngày lo sợ chồng chết trận, lại là người mộ đạo sùng bái thần linh, bà van vái Trời Phật Thánh Thần gia hộ cho ông sớm được bình an trở về. Nếu lời cầu xin được như ý, bà sẽ lập chùa thờ Phật để tạ ơn.

Khi Thoại Ngọc Hầu từ trấn Tây (Cao Miên) bình an trở về, bà kể lại lời cầu khấn, ông liền cho xây chùa lấy tên Tây An Tự (ngôi chùa từ trấn Tây bình an trở về). Sau đó cho lính sang Cao Miên chở cốt Phật về thờ, theo truyền thuyết thì cốt tượng Phật này do vua Cao Miên tặng Thoại Ngọc Hầu vì ông có công dẹp yên giặc Xiêm La.(sim phong thủy)

Nhưng ông lo ngại việc tự ý xây chùa và đem cốt Phật từ đất Miên về thờ sẽ thấu đến triều đình. Sợ vua không phong sắc mà còn bị quở phạt, nên đặt thành tên miếu Bà Chúa Xứ để tránh phiền phức.

Thực tế tại vùng kinh Vĩnh Tế lúc ấy có cả chùa Tây An và cả miếu Bà Chúa Xứ, như vậy Thoại Ngọc Hầu xây dựng chùa Tây An hay xây dựng miếu Bà đang còn được mọi người tìm hiểu ?!

Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, vùng này trong thời gian Thoại Ngọc Hầu trấn đóng đã có chùa Thụy Sơn ở địa hạt Thụy Sơn, và chùa Tây An ở địa hạt Vĩnh Tế, không ghi có miếu Bà Chúa Xứ, mặc dù từ chùa Tây An đến miếu Bà không xa chỉ trên một đoạn đường ngắn. Phải chăng vào đời vua Tự Đức (1848 – 1883), miếu Bà chưa hình thành hoặc miếu còn quá nhỏ nên không được ghi vào sách ?

Nên trong thời gian Thoại Ngọc Hầu trấn nhậm vùng Châu Đốc vào thời vua Minh Mạng (1820 – 1840), tương truyền cho rằng ông đã dựng lên chùa Tây An là đúng.

Nhưng có một tích khác lại quả quyết, Thoại Ngọc Hầu không xây dựng chùa Tây An mà ông dựng đền thờ Lễ Công ở hạt Châu Phú để thờ Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh. Còn chùa Tây An do Tổng đốc Doãn Uẩn xây dựng năm 1847, tức 18 năm sau khi Thoại Ngọc Hầu qua đời.

Cũng có thể nói, chùa Tây An do chính Thoại Ngọc Hầu xây dựng vào những năm 1820 – 1825, lúc đó nơi đây đã có miếu Bà bên đường, nên ông mượn tên miếu Bà để tránh tội. Sau này vào năm 1847, Tổng đốc Doãn Uẩn mới trùng tu lại chùa Tây An lớn như ngày nay.(sim hop tuoi)

LĂNG THOẠI NGỌC HẦU

Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1762-1829), quê huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, người có công đóng góp nhiều vào triều đình nhà Nguyễn đời Gia Long. Năm 1818, ông có công tổ chức đào kinh Đông Xuyên, còn gọi là kinh Thoại Hà.

Năm 1819 lại tổ chức dân chúng đào kinh Vĩnh Tế, nhưng ông chỉ đào được 3 năm thì ngừng, do dân phu đau ốm và chết quá nhiều, sau đó Tả quân Lê Văn Duyệt giao lại cho Trương Tấn Bửu đến đào tiếp.

Sau khi Thoại Ngọc Hầu qua đời, ông được truy tặng hàm Đô Đốc tước Ngọc Hầu, nên sách sử ghi là Đô thống Thoại Ngọc Hầu, có lăng tẩm đặt trên núi Sam, và gần như đối diện với miếu Bà Chúa Xứ.

Vào dịp lễ vía Bà hằng năm, chiều 24 tháng 4 ÂL, từ bên miếu Bà Chúa Xứ, Ban Quản Trị miếu Bà mặc lễ phục chỉnh tề sang Lăng thỉnh sắc ông qua Miếu dự lễ hội.

Đoàn thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu rất trang nghiêm, có lân dẫn đường rồi đến các vị chức sắc trong miếu Bà, các kỳ lão địa phương.(y nghia so dien thoai)

Đi sau các học trò lễ sắp thành hai hàng dọc, tay cầm cờ, cầm phướn đi hầu trước và sau Long đình, có lọng phủ do bốn người khiêng. Khi vào trong lăng, mọi người dâng hoa niệm hương tế lễ rồi thỉnh bốn bài vị lên Long đình rước về miếu Bà. Bốn bài vị gồm :

– Bài vị Đô thống Thoại Ngọc Hầu

– Bên trái bài vị bà chánh phẩm Châu Thị Tế

– Bên phải bài vị bà nhị phẩm Trương Thị Miệt

– Cuối cùng là bài vị các Công đồng

Khi thỉnh sắc về đến miếu Bà, các bài vị trên được an vị tại ngay chánh điện. Và ở đấy suốt thời gian tổ chức lễ vía Bà Chúa Xứ diễn ra.

Đến chiều ngày 27 tháng 4 ÂL như lúc thỉnh, các hương chức, các kỳ lão, học trò lễ vẫn cờ, phướn, Long đình tề tựu đưa sắc và các bài vị trở về Lăng Đô thống.(phong thuy sim)

Nguồn: Phongthuysim.vn

Cập nhật thông tin chi tiết về Lại Chuyện Cúng Bái Ở Các Hang Động Trên Núi Bà Đen trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!