Bạn đang xem bài viết Khu Di Tích Gò Tháp – Di Tích Quốc Gia Đặc Biệt Ở Đồng Tháp được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Khu di tích Gò Tháp – Di tích quốc gia đặc biệt ở Đồng Tháp
Khu di tích Gò Tháp là khu di tích cấp quốc gia đã được công nhận từ năm 1998, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa-lịch sử của dân tộc và nhân loại. Nơi đây hiện còn quần thể di tích của Vương quốc Phù Nam cách đây hơn 1.500 năm; có di tích 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cùng nhiều tầng văn hóa dân gian. Du lịch Đồng Tháp, đến đây tìm về nguồn cội, du khách sẽ có những trải nghiệm lý thú, từ đó thêm trân trọng những đóng góp của các bậc tiền nhân đi mở cõi.
Gò Tháp gồm nhiều gò nhỏ, thấp nằm trên một vùng đất pha cát, ở trung tâm khu vực Đồng Tháp Mười, có hệ thống kênh rạch chằng chịt, hệ sinh thái rừng tràm phát triển mạnh. Đặc biệt Gò Tháp là một trong 34 “di tích quốc gia đặc biệt” của Việt Nam, là 1 trong 2 di tích lịch sử và khảo cổ quan trọng trong cả nước (Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long và di tích Gò Tháp – tại huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).
Từ những năm cuối thế kỷ XIX và vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu người Pháp đã đến đây khảo sát và công bố những phát hiện quan trọng về một số dấu tích kiến trúc cổ, tượng thờ, bia đá và văn tự cổ… Từ sau khi đất nước hòa bình và thống nhất vào năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến khu di tích Gò Tháp.
Nhiều nhà khảo cổ học phát hiện nhiều dấu tích, di vật, hiện vật cổ thuộc nền văn minh Óc Eo. Đồng thời tìm ra được 3 loại hình di tích quan trọng là di tích cư trú với các di vật như: bếp lửa, những mảnh nồi, thanh củi cháy dở, cọc nhà sàn,…; di tích mộ táng được phát hiện ở các gò cát, qua nhiều đợt khai quật đã phát hiện 13 mộ táng, thu được trên 1.000 hiện vật, tùy táng chôn theo như: mảnh vàng có chạm khắc hoa văn, đá quí, đầu tượng, đồ gốm, nhẫn vàng…và di tích kiến trúc được phát hiện ở các gò cao như: Gò Minh Sư, Gò Tháp Mười, Miếu bà Chúa Xứ, Chùa Tháp Linh…Hầu hết di tích kiến trúc tìm thấy nằm sâu trong lòng đất, được xây dựng công phu có tường thành bao bọc xung quanh để chống sự xâm thực của gió và nước, kiến trúc xây dựng ở trình độ cao. Di vật, hiện vật tìm thấy ở đây chủ yếu là các tượng thần Visnu, Siva bằng đá sa thạch, cột đá có chốt, các phiến đá có chạm khắc hoa văn và minh văn.
Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, một bộ phận cư dân người Việt từ đàng ngoài đã vào đây khai hoang lập nghiệp, mở mang bờ cõi trên vùng đất còn hoang hóa với nhiều rừng rậm, sình lầy, muỗi bầy, thú dữ.
Chính vì thế, Gò Tháp không chỉ nổi tiếng về khai hoang, lập ấp mà còn nổi tiếng với địa hình hiểm trở, nơi hội tụ của bao anh hùng hào kiệt chống ngọai xâm giữ nước thời kỳ đầu chống Pháp khi Đảng ta chưa ra đời. Nơi đây là đại bản doanh của nghĩa quân Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều thời kỳ đầu chống Pháp (1864 – 1886). Từ năm 1946 – 1948, Gò Tháp là căn cứ địa của Xứ ủy Nam bộ, Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, Khu ủy khu 8. Nơi đây từng in dấu chân hoạt động cách mạng của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Thập… Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Tiểu đoàn 502 anh hùng đã đánh sập Viễn vọng đài cao 42m do chế độ Ngô Đình Diệm xây dựng để quan sát, khống chế các hoạt động của quân giải phóng vào tháng 12/1959.
Cách Gò Tháp Mười 100 m về phía Bắc là tháp Cổ Tự, tương truyền rằng đã có từ đời Thiệu Trị (1841-1847), trước đó là ngôi tháp thờ Chân Lạp. Trải qua nhiều thế kỉ thăng trầm, ngôi chùa giờ đây đượm màu hoang phế, những dấu vết chiến tranh cỏn in đậm trên vách tường và các bức tượng thờ thần, Phật v.v.
Du lịch Đồng Tháp, đến Gò Tháp bạn sẽ bất ngờ bởi đây không chỉ là khu di tích mà còn có cảnh quan thiên nhiên hoang sơ với những thảm thực vật phong phú đặt trưng của vùng đất ngập nước.
Động Hương Tích – Quần Thể Di Tích Chùa Hương
Từ cửa động đi xuống động Hương Tích – Quần thể di tích chùa Hương, hiện nay là 120 bậc đá kê không trát mặt, đôi bên là cây rừng cao vút như đón ta với cả tấm lòng ngay thẳng. Theo truyền thuyết phong thủy, động Hương Tích là miệng một con rồng lớn, núi Đụn Gạo là lưỡi rồng, cổ xưa từ trên cửa động xuống đến sân động phải qua hai cây càu bắc song song bằng gỗ lim (gọi là Bạch Liên Kiều) qua hang sâu, dưới có nước (gọi là Liên Trì – ao sen) rồi mới đi vào động…
Động Hương Tích – Quần thể di tích chùa Hương
1
của 11
“Hựu hà tất bồng châu doanh hải, Tiểu sơn lâm mà có đại kỳ quan… ” (Thám hoa Vũ Phạm Hàm) Sách Dư địa chí của Phan Huy Chú chép: “… Núi Hương Tích ở phía Tây núi Núi Hương Tích nằm ở độ cao hơn 900 mét, đường đi vào động được người dân sở tại Yến Vỹ từ buổi ban đầu mở lối kê quèn, kê bậc. Tuy đường núi quanh co, dốc cao nhưng việc đi lại cũng dễ dàng cho thập phương hành hương trẩy hội. Vẻ đẹp của cảnh núi rừng Hương Tích cũng có cả con đường “Gập ghềnh mây nối uốn thang mây…”. Với hơn 2000 m đường núi từ bến Trò (bến Suối) lên động Hương Tích không xa và cũng không cao là mấy, nhưng cũng đủ để thử người chưa biết. Vào được cửa Phật cũng không dễ dàng khi không có chân tâm vượt khó. Lên tới cửa động Hương Tích, núi non quanh ta, dưới thung lũng khá sâu ngỡ như: “Mình ta đã chon von trên đỉnh núi… . Cửa động bằng đá xanh được ghép dựng năm Đinh Mão (1927) tuy không bề thế nhưng cũng gợi lên vẻ thâm nghiêm linh địa của động. Lối vào động Hương Tích, trên vách đá cao bên trái có khắc năm chữ “Nam thiên đệ nhất động” là của chúa Tĩnh Đô Vương – Trịnh Sâm đặt bút đề tháng ba năm Canh Dần (1770) khi nhà Chúa tuần du Sơn Nam. Trong động những khối thạch nhũ to nhỏ được người xưa thổi hồn đặt tên theo hình dáng tự nhiên. Trên trần động Hương Tích, rủ xuống chín nhũ đá hình chín con rồng chầu một khối thạch nhũ dưới nền động, gọi là “Cửu Long Tranh Châu”, Núi Đụn Gạo, Cây Vàng, Cây Bạc, con trâu, con lợn, ao bèo, buồng tằm, né kén, Núi Cô, Núi Cậu và cả Bầu Sữa Mẹ thánh thót nhỏ như đếm thời gian mà du khách đến đây ai cũng mong mình may mắn cỏ được một giọt lấy khước. Xúc động trước cảnh ấy, có một nhà thơ đã viết:
“Hựu hà tất bồng châu doanh hải,Tiểu sơn lâm mà có đại kỳ quan… ”(Thám hoa Vũ Phạm Hàm)Sách Dư địa chí của Phan Huy Chú chép: “… Núi Hương Tích ở phía Tây núi Tuyết Sơn theo khe suối đi ngược lên, leo nhiều tầng núi mới vào động. Cảnh thiên nhiên như quỷ thần tạc rất lạ và khéo, là động đẹp nhất miền Nam Hải… Tương truyền, Phật Quan Ầm Bồ Tát cầm tích trượng sang phương Nam trụ trì ở đây… mỗi năm ngày xuân về thiện nam, tín nữ ở các phương đến động dâng hương…Núi Hương Tích nằm ở độ cao hơn 900 mét, đường đi vào động được người dân sở tại Yến Vỹ từ buổi ban đầu mở lối kê quèn, kê bậc. Tuy đường núi quanh co, dốc cao nhưng việc đi lại cũng dễ dàng cho thập phương hành hương trẩy hội.Vẻ đẹp của cảnh núi rừng Hương Tích cũng có cả con đường “Gập ghềnh mây nối uốn thang mây…”. Với hơn 2000 m đường núi từ bến Trò (bến Suối) lên động Hương Tích không xa và cũng không cao là mấy, nhưng cũng đủ để thử người chưa biết. Vào được cửa Phật cũng không dễ dàng khi không có chân tâm vượt khó.Lên tới cửa động Hương Tích, núi non quanh ta, dưới thung lũng khá sâu ngỡ như: “Mình ta đã chon von trên đỉnh núi… .Cửa động bằng đá xanh được ghép dựng năm Đinh Mão (1927) tuy không bề thế nhưng cũng gợi lên vẻ thâm nghiêm linh địa của động.Lối vào động Hương Tích, trên vách đá cao bên trái có khắc năm chữ “Nam thiên đệ nhất động” là của chúa Tĩnh Đô Vương – Trịnh Sâm đặt bút đề tháng ba năm Canh Dần (1770) khi nhà Chúa tuần du Sơn Nam. Trong động những khối thạch nhũ to nhỏ được người xưathổi hồn đặt tên theo hình dáng tự nhiên. Trên trần động Hương Tích, rủ xuống chín nhũ đá hình chín con rồng chầu một khối thạch nhũ dưới nền động, gọi là “Cửu Long Tranh Châu”, Núi Đụn Gạo, Cây Vàng, Cây Bạc, con trâu, con lợn, ao bèo, buồng tằm, né kén, Núi Cô, Núi Cậu và cả Bầu Sữa Mẹ thánh thót nhỏ như đếm thời gian mà du khách đến đây ai cũng mong mình may mắn cỏ được một giọt lấy khước.Xúc động trước cảnh ấy, có một nhà thơ đã viết:
“Dòng sữa mẹ thước nào đo được Nuôi bao năm mơ ước con khôn Nắng mưa dầu dãi sớm hôm Bốn mùa ấp ủ cho con bốn mùa” Những khối thạch nhũ có hồn sinh động mang biết bao tâm linh mơ ước và kỳ vọng của con người. Thật là sự kỳ diệu của một đại kỳ quan. Ngoài cảnh thiên nhiên tạo ra còn có cả dấu tích của bàn tay con người tô điểm từ xa xưa: chiếc bệ đá hoa sen, bốn góc bệ là hình người đóng khố, hai tay giơ lên đỡ cả khối đá tỏ sức mạnh với thời gian, năm tháng. Bệ đá này do hai bà phi tần của vương triều Lê – Trịnh công đức, không ghi rồ niên đại chỉ ghi lại quý danh: 1. Nội thi cung tần Trần Thị Khoan hiệu Diệu Đong Viên Khánh Chân nhân.
2. Vương phủ thị nội cung tần Vương Thị Đãng hiệu Diệu Chung Đức Viên Chân nhân. Văn chuông ghi: Quả chuông đồng lớn treo ở động Hương Tích hiện nay có niên đại Ất Mùi (1655) đời Vua Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức năm thứ 3. Những pho tượng đồng thờ trên tam bảo động Hương Tích là do gia đình bà Trịnh Thị Ngọc Du hiệu Diệu Hương Viên Kim Chân nhân công đức. Tượng đúc năm Ất Dậu (1705) niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ nhất đời vua Lê Dụ Tông. Năm Đinh Hợi (1767) niên hiệu Vua Lê Cảnh Hưng năm thứ 28, gia đình quan Tả Đô Đốc thái phủ Liêu Quận công Vũ Đình Trác cùng phu nhân Nguyễn Thị Tân công đức đúc pho tượng Phật Bà Quan Thế Âm (nhiều tay) thờ hàng giữa ở tam bảo động Hương Tích. Riêng pho tượng Chúa Bà Quan Âm tọa sơn tạc đá xanh, do gia đình ông Nguyễn Huy Nhật tước Nhật Quang Hầu và phu nhân là Nguyễn Thị Huề hiệu Thiện Cơ công đức năm Quý Sửu (1793) là một pho tượng đá quý, có những đường nét tạc khắc tuyệt đẹp dưới triều nhà Nguyễn Tây Sơn, hiện thờ giữa tam bảo. “Thần thông bỗng nhập vào tay khắc Tạc vẻ từ bi đẹp lạ thường… Ở Động Hương Tích, tín ngưỡng đạo Phật cùng tâm thức nhân dân đã tạo nên lễ hội dân gian có bề dày lịch sử, mang đậm đà bản sắc nền văn hóa nông nghiệp Việt Nam.
Loading…
Lễ Cất Nóc Chùa Chùa Ngọa Vân Tại Khu Di Tích Nhà Trần
Đến dự buổi lễ có đồng chí Nguyễn Văn Quynh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; ông Phạm Minh Chính, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ; Nguyễn Đức Long, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh; ông Nguyễn Văn Đọc, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh; Đỗ Thông, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh cùng các lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Ninh.
Chùa Ngọa Vân tọa lạc tại núi Bảo Đài thuộc thôn Tây Sơn, xã Bình Khê, huyện Đông Triều, là nơi hóa Phật của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông. Đây được coi như là thánh địa của Phật giáo Trúc Lâm nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. Trải qua thời gian, quần thể di tích Ngọa Vân đã dần bị xuống cấp, hư hỏng, cần phải được trùng tu, tôn tạo.
Để quảng bá và phát huy giá trị di tích, từ năm 2007 đến năm 2009, UBND huyện Đông Triều đã phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành điều tra, nghiên cứu khảo cổ học di tích Ngọa Vân.
Năm 2013, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích lịch sử Nhà Trần ở Đông Triều. Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, ngày 08/10/2013 UBDN tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số 2704/QĐ-UBND về việc phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo di tích chùa Trung (chùa Ngọa Vân).
Dự án đầu tư trùng tu, tôn tạo di tích Chùa Ngọa Vân được khởi công vào tháng 3/2014, có tổng mức đầu tư 95 tỷ đồng. Dự án gồm nhiều hạng mục như: Tam bảo, nhà Tổ, tam quan, nhà khách, am hoá vàng, vườn trưng bày khảo cổ, vườn tháp… Trong đó, tam bảo (chính điện) có mặt bằng hình chữ nhật, với diện tích 264,27m2, gồm 2 nếp nhà có kết cấu khung gỗ lim 3 gian 2 chái: Tiền đường 1 tầng 4 mái và thượng điện 2 tầng 8 mái. Hình thức kiến trúc, bài trí tượng thờ cũng như bờ nóc, bờ dải, đầu đao con giống được thiết kế theo kiến trúc truyền thống thời Lê Trung hưng.
Phát biểu tại buổi lễ, ông Phạm Minh Chính, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ninh khẳng định: Trong năm qua, Quảng Ninh đã đề xuất với Chính phủ để công nhận 3 Khu di tích Quốc gia đặc biệt là Khu di tích nhà Trần tại Đông Triều, Khu di tích Yên Tử và Khu di tích Chiến thắng Bạch Đằng tại Quảng Yên. Đây là nền tảng cho sự phát triển du lịch văn hoá tâm linh trên địa bàn, trong đó Đông Triều – Yên Tử là những địa danh linh thiêng, gắn liền với cuộc đời tu hành và hoá phật của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông. Địa phương đang tích cực triển khai quy hoạch tổng thể các Khu di tích Quốc gia đặc biệt kể trên; đồng thời lập hồ sơ đề cử UNESCO công nhận Di sản thế giới cho quần thể di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử.
Đây là dự án khởi đầu cho các dự án tu bổ, tôn tạo, xây dựng các di tích thuộc khu di tích nhà Trần tại Đông Triều, có ý nghĩa to lớn trong việc hướng về cội nguồn dân tộc, tri ân các bậc tiền nhân.
Quốc Cường
Quần Thể Di Tích Phủ Dầy (Nam Định)
Phủ Dầy (có khi ghi là Phủ Giầy, Phủ Giày) là một quần thể di tích tâm linh của người Việt tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, gần quốc lộ 10 từ thành phố Nam Định đi thành phố Ninh Bình (tỉnh lộ 56). Trong đó, kiến trúc quan trọng nhất là đền thờ bà chúa Liễu Hạnh (phủ chính), ngay sát chợ Viềng. Các kiến trúc còn lại là phủ Tiên Hương, phủ Vân Các, Công Đồng từ, đền thờ Lý Nam Đế, chùa Linh Sơn, và lăng bà chúa Liễu Hạnh.
Phủ Dầy là một quần thể di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia từ năm 1975.
Ngày 02 tháng 04 năm 2017, Quần thể di tích lịch sử – văn hóa Phủ Dầy vinh dự tổ chức lễ đón bằng UNESCO ghi danh “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Truyền thuyết về Phủ Dầy:
Phủ Dầy gắn với những huyền thoại khác nhau về vùng đất, chẳng hạn:
– Khi gọi Kẻ giầy – Phủ Giầy xuất phát từ truyền thuyết Bà Chúa Liễu Hạnh vì quá nhớ thương gia đình, chồng con nên đã để lại một chiếc giầy ở trần gian trước khi về thượng giới hoặc có huyền thoại: Vua đi qua vùng này và nghỉ đêm ở quán hàng của bà chúa Liễu Hạnh, sau đó được tặng một đôi giầy nên đã lập nơi thờ tự và gọi đó là Phủ Dầy.
– Khi gọi Phủ Dầy còn vì chính nơi này có món bánh dày – giò nổi tiếng, lại có người cho rằng: Kẻ Dày xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dầy trước cửa phủ.
– Phủ Dầy bắt nguồn từ tên một làng cổ là “Kẻ giầy”. Theo “Sự tích công chúa Liễu Hạnh” của Trọng Nội, Xuất bản năm 1959 thì: đời Vua Anh Tông (1557) làng kẻ Giầy đổi thành xã An Thái gồm: Vân Cát, Vân Cầu, Vân La (Vân Đình) và Vân Miếu. Đến đời Gia Long, Vân Cát chia thành 2 xã là Vân Cát và Kim Thái. Sang đời Tự đức (1860) xã An Thái đổi thành 2 thôn Vân Cát và Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam định.
Như vậy, Vân Cát là nơi sinh ra, Tiên Hương là quê chồng và là nơi chôn cất Mẫu Liễu Hạnh khi Bà qua đời sau lần giáng trần thứ nhất. Phủ Dầy chính là “cái nôi” sinh ra Thánh Mẫu Liễu Hạnh và là tên gọi chung cho một quần thể các di tích của tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở huyện Vụ Bản Nam định. Tên di tích được gọi theo địa danh ở địa phương.
1. Phủ Tiên Hương
2. Phủ Vân Cát
3. Lăng Thanh Mẫu Liễu Hạnh
Ngoài ra, bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về:
1. Thánh Mẫu Liễu Hạnh là ai?
2. Lễ hội phủ Dầy
3. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu
Cập nhật thông tin chi tiết về Khu Di Tích Gò Tháp – Di Tích Quốc Gia Đặc Biệt Ở Đồng Tháp trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!