Xu Hướng 12/2023 # Festival Biển 2011: Lễ Giỗ Mẹ Âu Cơ. # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Festival Biển 2011: Lễ Giỗ Mẹ Âu Cơ. được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cùng chuyên mục

Kiến tạo các không gian sáng tạo độc đáo, mới lạ cho Hà Nội

18 phương án thiết kế các không gian sáng tạo xuất sắc được lựa chọn cho thấy thành phố Hà Nội đang đứng trước một cơ hội lớn để hình thành nên bản sắc mới từ việc phát triển các không gian sáng tạo.

Bắc Giang: Sẽ nhờ chuyên giá đánh giá và khôi phục nguyên trạng bia cổ tại chùa Thổ Hà

Thái Nguyên: Chú trọng phát triển văn hóa – nghệ thuật

(Xây dựng) – Nhằm có định hướng, giải pháp phù hợp cho phát triển văn hóa – nghệ thuật trong bối cảnh nền kinh tế đang chịu tác động lớn của bởi dịch bệnh Covid-19, tỉnh Thái Nguyên đã đề ra nhiều mục tiêu lớn cho giai đoạn 2023 – 2025.

Tu bổ chùa ở Bắc Giang, vỡ bia đá cổ hàng trăm năm tuổi

Trong quá trình dịch chuyển phục vụ công tác tu bổ, tôn tạo di tích chùa Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang), khối bia cổ 342 năm tuổi bị vỡ thành nhiều phần.

Mùa thu chầm chậm

(Xây dựng) – Tôi là người theo “chủ nghĩa” lang thang. Thường sáng hay ra phố ăn quà vặt, mỗi hôm một món, café xong mới đến cơ quan. Từ ngày thành phố giãn cách, phải ly biệt thói quen ấy. Hôm vợ dúi cho 5 ngàn xôi, hôm 2 chiếc bánh rán…; chè hay café tan, cứ thế diễn. Rồi cũng qua. Xong ngồi vào bàn, mắt dán vào máy tính. Tôi chẳng nhớ mùa chuyển lúc nào. Có lẽ cảm nhận ra mùa thu chỉ nhờ vào một điều duy nhất: không phải bật máy điều hòa nữa.

Nắng ở miền biên ải

(Xây dựng) – Mất vài cây số đi đường tránh qua đèo Mã Phục, xe lại tăng tốc trên con đường êm ái như ru. So với vài chục năm trước thì con đường là một đổi thay kì diệu nhất. Chỉ tiếc bóng dáng uy nghi chậm rãi của những cọn nước khổng lồ đã không còn. Hai chiếc cọn bé xíu còn lại nằm khuất sau bờ kè xây gạch trát xi măng vuông vắn kể cũng kém đi vài phần xúc động.

Mẹ Âu Cơ Là Tiên Giáng?

Truyền thuyết kể rằng: Âu Cơ vốn là một nàng tiên chuyên về trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải cho trời. Nhân tiết đầu xuân du ngoạn, nàng lẫn vào mây xanh nhìn xuống hạ giới thấy bãi mía, nương dâu ngút ngàn. Hỏi ra mới biết là động Lăng Xương bên bờ sông Đà, cảnh vật dưới trần còn đẹp hơn tiên cảnh. Nàng bèn rời tiên cung bay xuống thưởng ngoạn…

Bất ngờ bên bờ sông, hiện ra một chàng trai tuấn tú, tướng mạo khác thường. Hai người chào hỏi nhau rồi chuyện trò vui vẻ xem ra rất tâm đầu ý hợp. Họ đi dạo bên bờ sông xanh, giữa nương dâu ngút mắt, từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, quên cả ăn cả uống. Người con trai có tướng mạo phi thường đó chính là Lạc Long Quân, vua của nước Văn Lang. Nhà vua đi tuần thú khai Xuân trông thấy tiên sa, mới dừng lại chờ đợi.

Mẹ Âu Cơ đem đem 50 người con lên núi trồng cây hái quả. Tranh: Thanh Trí

Khi đầu mày cuối mắt đều ưa, Long Quân mới ngỏ lời cầu hôn nàng Âu Cơ. Nàng nói: “Chàng là giống Rồng, thiếp là nòi Tiên, thủy hỏa tương khắc, lấy nhau thế nào được!”.

Long Quân liền nói: “Ta biết, thủy hỏa tương khắc đấy, nhưng âm dương vẫn hòa hợp. Tuy không được ở với nhau lâu dài nhưng duyên trời một khắc ấy là trăm năm…”. “Nếu sau một thời gian ngắn sống với chàng thiếp lại về trời… thế là được”, Âu Cơ ưng thuận.

Long Quân đưa nàng Âu Cơ về núi Nghĩa Lĩnh. “Đúng ba năm, ba tháng mười ngày vào giờ Ngọ ngày 25 tháng Chạp Mậu Tý, mây lành bao phủ, tướng lạ hiện tiền, hào quang sáng chói khắp phòng, hương thơm ngào ngạt cả vùng, Âu Cơ trở dạ sinh ra 100 quả trứng ngọc…

“Đúng giờ Ngọ, 15 tháng Chạp Ất Sửu, bào thai nở thành 100 trứng nở thành 100 con trai, lúc ấy hào quang rực rỡ, hương thơm sực nức đầy nhà. Trong có một tháng không cần bú mớm mà đã lớn khôn, tướng mạo khác thường, tinh thần lẫm liệt, cái thế anh hùng, cao to 3 thước, 7 tấc…). (Trích Ngọc ngả Đền Hùng).

Âu Cơ dẫn 50 con ngược sông Thao đến Trang Hiền Lương, thấy một vùng đất sơn thủy hữu tình, chẳng khác gì tiên cảnh. Âu Cơ dừng lại, chọn Trang Hiền Lương làm nơi lập ấp sinh sống, và sai các con đi tiếp khai khẩn các vùng đất xa xôi…

Mẫu Âu Cơ dạy dân cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, bắc cầu qua khe suối, đào giếng Loan, giếng Phượng lấy nước sạch ăn uống. Khi vùng đất Hiền Lương trở nên trù phú, các con đi khai khẩn những vùng đất mới, vượt qua mọi núi non hiểm trở để tạo dựng cơ nghiệp cho muôn đời, mẫu Âu Cơ mới quyết định bay về trời.

Vào lúc nửa đêm ngày 25 tháng Chạp, mưa to gió lớn mù mịt đất trời, Mẫu Âu Cơ đằng vân. Vì không muốn các con biết mình rời hạ giới, Mẫu vội vàng đến nỗi đánh rơi dải yếm, vướng vào ngọn đa cổ thụ cạnh giếng Loan, giếng Phượng.

Sáng hôm sau trời quang, mây tạnh, dân Trang Hiền Lương không thấy Mẫu, mọi người lo lắng bổ đi tìm. Gần trưa có người nhìn lên ngọn đa thấy có dải yếm đào vắt ngang mới biết Mẫu đã về trời. Dân lập đền thờ Mẫu ngay dưới tán đa, định lễ cầu cúng một năm hai lần vào ngày Tiên Giáng mồng 7 tháng Giêng và ngày Tiên thăng 25 tháng Chạp…

Đứng trước khu đền Mẫu Âu Cơ, tôi cùng thạc sĩ Đặng Đình Vương và chị Đào Thị Nhạn, những người bỏ nhiều công sức cho khu di tích. Phía trước mặt chúng tôi là núi Giác giống như một chiếc án thư khổng lồ, kỳ vĩ, sau lưng là vòng cung sông Thao tựa thân rồng uốn lượn… Khu đền nằm trên một vạt đồi bằng phẳng, rộng gần 3 héc-ta ở giữa xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa.

Tượng đồng Âu Cơ (cao 1,6m của điêu khắc gia Nguyễn Phúc Tùng) trong đền Tổ Mẫu. Ảnh: Phanxipăng

Đền Tổ Mẫu Âu Cơ. Ảnh: Dulichphutho

Hiền Lương ở vị trí tận cùng Tây Bắc, tỉnh Phú Thọ, giáp tỉnh Yên Bái, cách thành phố Việt Trì 80 cây số. Từ Thủ đô Hà Nội lên khu đền Mẫu có thể đi đường bộ, đường thủy hoặc đường sắt. Đường bộ đi từ Việt Trì qua cầu Phong Châu sang hữu ngạn sông Thao rồi ngược đường 32C. Đường thủy, xuất phát từ ngã ba Bạch Hạc ngược sông Thao đến bến Hiền Lương. Đường sắt, từ ngã ba Việt Trì xuống ga Đan Thượng hoặc từ thành phố Yên Bái xuôi 20 km sẽ tới…

Đền Mẫu Âu Cơ ẩn dưới tán đa cổ thụ. Cây đa hiện nay do rễ phụ của cây đã cũ tạo nên nhiều gốc trên một diện tích khá rộng. Nhân dân ở đây vẫn cho rằng cây đa có từ thời Mẫu Âu Cơ bốn nghìn năm trước… Bất giác, tôi nhìn lên ngọn đa nơi có yếm đào của Mẫu Âu Cơ trước khi bay về trời còn để lại.

Chúng tôi vào dâng hương…

Đền Quốc Mẫu Âu Cơ xưa kia chỉ thờ một mình Mẫu. Có pho tượng Mẫu bằng gỗ quý cao 93cm ngồi trên long ngai, hai tay tì lên đầu gối, mặc áo đại trào, đầu đội mũ miện, chân đi hài cong.

Theo sử sách, đời vua Lê Thánh Tông, năm thứ 6 niên hiệu Quang Thuận (Tây lịch 1465) sai quan lễ bộ tri bảng thần Nguyễn Hiền sao lại bản sự tích Mẫu Âu Cơ để truyền lại. Bản sự tích nói rằng, Hoàng đế thời đó sai giám quan quốc sư viết sắc phong thần và đến trang ấp Trang Hiền Lương trao cho phụ lão 30 quan tiền để lập miếu thờ, hương hỏa đời đời…

Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ. Ảnh: Sở Văn hóa – Thông tin – Du lịch tỉnh Phú Thọ

Lễ hội Quốc Mẫu Âu Cơ một năm diễn ra hai lần. Ngày 7 tháng Giêng là lễ cầu chính, mở hội lớn ba ngày, chuẩn bị trước cả tháng. Dân làng họp để bầu chọn xóm đăng cai (xóm Chợ, xóm Gò, xóm Lón). Nếu xóm nào quanh năm hòa thuận, không xảy ra trộm cắp hoặc con cái chửa hoang thì được đăng cai. Xóm lại chọn gia đình nào con hiền thảo, gia đình hòa thuận ấm êm, mới được đăng cai.

Có một điều thật thú vị, phần lễ tế ở đây đều do nữ đảm nhận. Từ năm 1941 đến nay đội tế gồm 11 cô gái xinh xắn, chưa chồng được phân ra làm các chức việc: Một cô làm chủ tế mặc áo dài đỏ, quần trắng, đi hài, đầu vấn khăn đỏ, quấn đai kim tuyến ở bên ngoài. Hai cô làm bồi tế, khăn và áo dài phớt hồng, quần trắng, đi hài. Hai cô làm Đông Tây xướng, một cô làm thông tán đọc chúc văn…

Chúng tôi đi thăm giếng Loan, giếng Phượng, nhà Tả mạc, Hữu mạc, ao sen… quần thể di tích hài hòa, tụ lại nơi đây khí thiêng sông núi. Một khu đất rộng để quan khách đến trồng cây. Mỗi cây gỗ quý được ghi tên một người trồng. Tôi cũng trồng một cây trắc bách diệp. Nhìn những giọt sương mai còn đọng lại trên tán lá tội lại nhớ tới câu chuyện mà thạc sĩ Đặng Đình Vương kể.

Đặng Đình Vương quê ở đây, từng làm Chủ tịch UBND huyện Hạ Hòa. Anh kể rằng, vào những năm 60 của thế kỷ trước, một sáng mùa Xuân, khói sương còn bảng lảng chưa rõ mặt người, có một cụ bà đi chợ sớm nhìn thấy phía trước có bóng ai to cao lừng lững. Cụ chào, không thấy thưa, hỏi, không nói. Rảo bước đến gần mới nhận ra… Chao ôi! Không phải người! Một cụ gấu. Thế là cả làng náo động. Mõ, trống, thanh la, giáo mác…

Cụ Gấu tỏ ra không sợ hãi. Cụ rảo bước vào đền Mẫu Âu Cơ. Dân làng vẫn không tha, vây kín vòng trong, vòng ngoài. Có kẻ liều lĩnh cầm mác xông vào, bị cụ Gấu tát cho vỡ quai hàm. Những kẻ quá khích hô bắn, bắn. Mấy loạt súng AK nổ vang. Khi cụ Gấu tắt thở, dân làng liền xẻ thịt chia nhau… Nghe nói sau đó, cả làng không yên ổn. Nhiều vụ việc đau lòng xảy ra.

Người ta cho rằng, cụ Gấu là thanh mẫu hiện hình! Thực hư đến đâu, chuyện kể vẫn chỉ là chuyện kể. Nhưng đằng sau câu chuyện là bao ngụ ý sâu xa. Có một thời ấu trĩ, chúng ta đã phá đền, phá chùa, phá rừng, săn bắn động vật hoang dã một cách tàn bạo… làm mất đi sự cân bằng của môi trường sống, xâm phạm vào hồn thiêng sông núi… Hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu là nhãn tiền.

Thuở ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã được học: Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh một bọc trứng, nở ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, năm mươi người theo mẹ lên rừng. Chỉ có thế! Mấy chục năm qua, bôn ba khắp đất nước, đi cũng rất nhiều nơi trên thế giới mà bây giờ khi tóc đã pha sương mới đến thắp hương ở Quốc Mẫu Âu Cơ. Dù nơi linh thiêng này chỉ cách Hà Nội chưa đến 200km.

Đến đây, tôi mới hiểu được rất nhiều điều. Con người sống ở đâu cũng vậy, phải biết đâu là nguồn cội, đâu là tổ tông. Như cây có cội, như sông có nguồn. Không hiểu được tường tận nguồn cội thì sao có đủ nhân cách để làm người, làm sao có thủy, có chung, có sau có trước… Biết bao bài học quý giá trong nhân gian, trong những câu chuyện kể, trong những truyền thuyết hào hùng mà chúng ta nhiều khi vì miếng cơm manh áo trước mắt, đã bỏ qua…

Khi ngồi viết bài này, tôi đã nhiều lần tự hỏi, những câu hỏi bắt đầu từ sử sách.

Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ 15) ghi: Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng) là Tổ của Bách Việt.

Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau chung hợp khó”, bèn từ biệt chia nhau 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về miền Nam (có sách chép là Nam Hải), phong con trưởng là Hùng Vương nối ngôi vua (Ngọc phả quyển 1).

Trong sách ” Khâm địch Việt sử thông giám cương mục” thế kỷ 19 lại ghi: Hùng Vương dựng nước gọi là Văn Lang. Kinh Dương Vương sinh con là Sùng Lãm, gọi là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh trăm con trai. Ấy là tổ tiên của Bách Việt. Long Quân và Âu Cơ suy tôn con trưởng Hùng Vương nối ngôi vua, dựng nước gọi là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu truyền ngôi 18 đời gọi là Hùng Vương…

Sử sách ghi Âu Cơ con của Đế Lai, nhưng truyền thuyết lại kể Âu Cơ là một nàng tiên giáng trần. Âu Cơ là nàng tiên, khi dựng xong cơ nghiệp ắt nàng tiên phải đằng vân, để lại ánh hào quang muôn thuở. Cũng như Thánh Gióng, đánh xong giặc Ân không đòi hưởng vinh hoa phú quý đã vội cởi áo giáp bay về trời… Bao truyền thuyết đẹp đẽ ấy nhắc nhở chúng ta điều gì?!

Lạc Long Quân và Âu Cơ theo truyền thuyết là một câu chuyện tình đẹp đẽ tưởng như hiển hiện từ nghìn đời nay. Câu chuyện không những cho chúng ta hiểu thêm về nguồn gốc tổ tiên với dòng giống Tiên Rồng, hiểm thêm về Quốc mẫu, về cội nguồn của mọi cội nguồn để người dân nước Việt dù ở đâu cũng là anh em, cũng bắt đầu từ một bọc trứng, từ một người mẹ vĩ đại Âu Cơ. Câu chuyện còn nói về sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên – bà mẹ thiên nhiên vĩ đại – mà chúng ta luôn tôn thờ, gìn giữ.

* Tòa soạn đặt lại Tít

Văn Khấn Mẫu Mẹ Âu Cơ

Văn Khấn Khi Đi Phủ Tây Hồ, Bài Khấn ở Đền, Văn Khấn Sao La Hầu, Văn Khấn Sao Thổ Tú, Văn Khấn Giỗ Bố, Bài Khấn ở Ban Tam Bảo, Văn Khấn Giỗ, Bài Khấn Nôm, Văn Khấn Sau Khi Bốc Mộ, Văn Khấn Em Bé Đỏ, Văn Khấn Sửa Mộ, Văn Khấn Sửa Nhà, Mẫu Đơn Tố Cáo Khẩn Cấp, Văn Khấn Tạ Đất, Bài Khấn ở Đền Mẫu, Văn Khấn Giỗ Cụ, Văn Khấn Khi Đi Đền, Bài Khấn Phá Dỡ Nhà, Bài Khấn ông Táo, Văn Khấn Hán Nôm, Văn Khấn Hạ Lễ, Văn Khấn Sám Hối, Văn Khấn Hạ Bàn Thờ, Bài Khấn ông Địa Thần Tài, Văn Khấn Hà Bá, Bài Khấn ở Yên Tử, Bài Khấn ở Phủ Tây Hồ, Bài Khấn ở Nhà, Văn Khấn Giỗ Đầu, Văn Khấn Đức ông, Văn Khấn Đổ Mái, Văn Khấn Tế Tổ, Bài Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Dỡ Nhà, Bài Khấn Lễ Đổ Mái Nhà, Bài Khấn Lễ Đền, Văn Khấn Dỗ Bố, Bài Khấn Lễ ăn Hỏi, Bài Khấn Lễ, Văn Khấn Dỗ, Văn Khấn Di Dời Mộ, Bài Khấn Khi Đi Đền, Văn Khấn Cô Bơ, Văn Khấn Tổ Cô, Văn Khấn Tế Họ, Bài Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn Đền Phủ, Văn Khấn Đền Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Tạ Mộ, Văn Khấn Đền Mẫu, Văn Khấn Đền, Mẫu Đơn Xin Trợ Cấp Khó Khăn, Bài Khấn Mở Cửa Mã, Văn Khấn Dọn Về Nhà Mới, Văn Khấn Phá Nhà, Văn Khấn Dời Mộ, Văn Khấn Tẩy Uế, Bài Khấn Mẫu âu Cơ, Bài Khấn Mẫu, Văn Khấn Cô 9, Văn Khấn Khi Lễ Đền, Văn Khấn ông Bảy, Bài Khấn Xin Lộc, Văn Khấn Ong Thần Tài, Bài Khấn Xin Con, Văn Khấn ở Đền, Bài Khấn Xin Bán Nhà, Bài Khấn Xây Nhà, Văn Khấn Nôm, Bài Khấn Vào Nhà Mới, Bài Khấn Vào Hè, Bài Khấn Vào Đền, Bài Khấn Vái Về Nhà Mới, Bài Khấn Tứ Phủ, Bài Khấn Thần Tài Thổ Địa, Bài Khấn Xin Sám Hối, Bài Khấn Xin Sửa Mộ, Văn Khấn ô Tô, Văn Khấn ô Thần Tài, Con Quý Vị Gặp Khó Khăn Khi Đọc?, Văn Khấn Ong Dia, Văn Khấn ông Địa, Văn Khấn ô Táo, Các Bài Khấn âm Hán, Ca Sĩ Văn Khấn, Văn Khấn ở Phủ Tây Hồ, Bài Văn Khấn Tẩy Uế, Văn Khấn ông Táo, Bài Khấn Yên Tử, Văn Khấn ô Địa, Bài Khấn Tam Bảo, Bài Khấn Tại Yên Tử, Văn Khấn M 1, Văn Khấn Lễ Tạ Đất, Bài Khấn Rằm Tại Nhà, Bài Khấn Rằm, Văn Khấn Lễ Tạ, Bài Khấn Ra Mộ, Văn Khấn Rằm, Đơn Xin Hỗ Trợ Khó Khăn,

Văn Khấn Khi Đi Phủ Tây Hồ, Bài Khấn ở Đền, Văn Khấn Sao La Hầu, Văn Khấn Sao Thổ Tú, Văn Khấn Giỗ Bố, Bài Khấn ở Ban Tam Bảo, Văn Khấn Giỗ, Bài Khấn Nôm, Văn Khấn Sau Khi Bốc Mộ, Văn Khấn Em Bé Đỏ, Văn Khấn Sửa Mộ, Văn Khấn Sửa Nhà, Mẫu Đơn Tố Cáo Khẩn Cấp, Văn Khấn Tạ Đất, Bài Khấn ở Đền Mẫu, Văn Khấn Giỗ Cụ, Văn Khấn Khi Đi Đền, Bài Khấn Phá Dỡ Nhà, Bài Khấn ông Táo, Văn Khấn Hán Nôm, Văn Khấn Hạ Lễ, Văn Khấn Sám Hối, Văn Khấn Hạ Bàn Thờ, Bài Khấn ông Địa Thần Tài, Văn Khấn Hà Bá, Bài Khấn ở Yên Tử, Bài Khấn ở Phủ Tây Hồ, Bài Khấn ở Nhà, Văn Khấn Giỗ Đầu, Văn Khấn Đức ông, Văn Khấn Đổ Mái, Văn Khấn Tế Tổ, Bài Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Dỡ Nhà, Bài Khấn Lễ Đổ Mái Nhà, Bài Khấn Lễ Đền, Văn Khấn Dỗ Bố, Bài Khấn Lễ ăn Hỏi, Bài Khấn Lễ, Văn Khấn Dỗ, Văn Khấn Di Dời Mộ, Bài Khấn Khi Đi Đền, Văn Khấn Cô Bơ, Văn Khấn Tổ Cô, Văn Khấn Tế Họ, Bài Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn Đền Phủ, Văn Khấn Đền Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Tạ Mộ, Văn Khấn Đền Mẫu,

Bài Khấn Lễ Mẫu Âu Cơ

Văn Khấn Bán Nhà, Bài Khấn Phủ Dầy, Văn Khấn Đổ Mái, Văn Khấn Đức ông, Văn Khấn Em Bé Đỏ, Văn Khấn Giỗ, Văn Khấn Giỗ Bố, Bài Khấn Phá Dỡ Nhà, Văn Khấn Giỗ Cụ, Bài Khấn ông Táo, Văn Khấn Giỗ Đầu, Văn Khấn Hà Bá, Văn Khấn Hạ Bàn Thờ, Văn Khấn Hạ Lễ, Văn Khấn Hán Nôm, Văn Khấn Đền Phủ, Bài Khấn Phủ Tây Hồ, Văn Khấn Đền Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Ban Tam Bảo, Văn Khấn Cô 6, Văn Khấn Cô 9, Văn Khấn Cô Bơ, Bài Khấn Rằm Tại Nhà, Bài Khấn Rằm, Bài Khấn Ra Mộ, Văn Khấn Di Dời Mộ, Văn Khấn Dỗ, Văn Khấn Dỡ Nhà, Văn Khấn Dời Mộ, Văn Khấn Dọn Về Nhà Mới, Văn Khấn Đền, Văn Khấn Đền Mẫu, Bài Khấn ông Địa Thần Tài, Văn Khấn Khi Đi Đền, Văn Khấn Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Mẫu Mẹ âu Cơ, Văn Khấn Mở Cửa Mả, Bài Khấn Mở Cửa Mã, Bài Khấn Mẫu âu Cơ, Bài Khấn Mẫu, Bài Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn Nôm, Bài Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn ở Đền, Bài Khấn Lễ Đổ Mái Nhà, Bài Khấn Lễ Đền, Bài Khấn Lễ ăn Hỏi, Văn Khấn ô Địa, Văn Khấn Mẫu, Văn Khấn M 1, Văn Khấn Lễ Tạ Đất, Bài Khấn ở Yên Tử, Bài Khấn ở Phủ Tây Hồ, Bài Khấn ở Nhà, Văn Khấn Khi Đi Phủ Tây Hồ, Văn Khấn Khi Lễ Đền, Văn Khấn Lầu Cô Lầu Cậu, Bài Khấn ở Đền Mẫu, Bài Khấn ở Đền, Văn Khấn Lễ Mẫu, Văn Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Bài Khấn ở Ban Tam Bảo, Văn Khấn 2 ông Thần Tài, Bài Khấn Nôm, Văn Khấn Lễ Tạ, Bài Khấn Lễ, Đơn Xin Hỗ Trợ Khó Khăn, Văn Khấn 16, Văn Khấn 2, Văn Khấn 2 Tết, Văn Khấn 2/16, Văn Khấn 23, Con Quý Vị Gặp Khó Khăn Khi Đọc?, Văn Khấn 27/7, Các Bài Khấn âm Hán, Ca Sĩ Văn Khấn, Văn Khấn 3 Tết, Bài Văn Khấn Tẩy Uế, Văn Khấn 3.3, Văn Khấn 3/3, Văn Khấn 3/3 Tại Mộ, Văn Khấn 15/8, Văn Khấn 15 Rằm, Văn Khấn 15, Đơn Xin Trợ Cấp Khó Khăn, Đơn Kêu Cứu Khẩn Cấp, Mẫu Đơn Tố Cáo Khẩn Cấp, Mẫu Đơn Xin Trợ Cấp Khó Khăn, Từ Văn Bản Lao Xao Của Duy Khán, Văn Khấn, Văn Khấn 01 Tết, Văn Khấn 03/03, Văn Khấn 1, Văn Khấn 1 Tết, Văn Khấn 1/7 âm, Văn Khấn 1/8, Văn Khấn An Vị Thần Tài Thổ Địa, Văn Khấn 12 Bà Mụ, Văn Khấn 30 Tết, Bài Khấn Yên Tử,

Văn Khấn Bán Nhà, Bài Khấn Phủ Dầy, Văn Khấn Đổ Mái, Văn Khấn Đức ông, Văn Khấn Em Bé Đỏ, Văn Khấn Giỗ, Văn Khấn Giỗ Bố, Bài Khấn Phá Dỡ Nhà, Văn Khấn Giỗ Cụ, Bài Khấn ông Táo, Văn Khấn Giỗ Đầu, Văn Khấn Hà Bá, Văn Khấn Hạ Bàn Thờ, Văn Khấn Hạ Lễ, Văn Khấn Hán Nôm, Văn Khấn Đền Phủ, Bài Khấn Phủ Tây Hồ, Văn Khấn Đền Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Ban Tam Bảo, Văn Khấn Cô 6, Văn Khấn Cô 9, Văn Khấn Cô Bơ, Bài Khấn Rằm Tại Nhà, Bài Khấn Rằm, Bài Khấn Ra Mộ, Văn Khấn Di Dời Mộ, Văn Khấn Dỗ, Văn Khấn Dỡ Nhà, Văn Khấn Dời Mộ, Văn Khấn Dọn Về Nhà Mới, Văn Khấn Đền, Văn Khấn Đền Mẫu, Bài Khấn ông Địa Thần Tài, Văn Khấn Khi Đi Đền, Văn Khấn Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Mẫu Mẹ âu Cơ, Văn Khấn Mở Cửa Mả, Bài Khấn Mở Cửa Mã, Bài Khấn Mẫu âu Cơ, Bài Khấn Mẫu, Bài Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn Nôm, Bài Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn ở Đền, Bài Khấn Lễ Đổ Mái Nhà, Bài Khấn Lễ Đền, Bài Khấn Lễ ăn Hỏi, Văn Khấn ô Địa, Văn Khấn Mẫu, Văn Khấn M 1,

Văn Khấn Lễ Mẫu Âu Cơ

Văn Khấn Hạ Bàn Thờ, Văn Khấn 30 Tết, Bài Khấn Xin Bán Nhà, Văn Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn Lễ Tạ Đất, Văn Khấn M 1, Văn Khấn Mẫu, Văn Khấn Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Mẫu Mẹ âu Cơ, Bài Khấn Xin Con, Văn Khấn 3/3 Tại Mộ, Bài Khấn Xin Lộc, Bài Khấn Xin Sám Hối, Văn Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Lễ Mẫu, Bài Khấn Xây Nhà, Bài Khấn Vào Nhà Mới, Văn Khấn Hạ Lễ, Bài Khấn ở Đền Mẫu, Bài Khấn ở Đền, Văn Khấn Hán Nôm, Văn Khấn 49, Văn Khấn 4 Phủ, Bài Khấn ở Ban Tam Bảo, Văn Khấn Khi Đi Đền, Bài Khấn Nôm, Văn Khấn Khi Đi Phủ Tây Hồ, Văn Khấn Lầu Cô Lầu Cậu, Bài Khấn Mở Cửa Mã, Văn Khấn 3/3, Ca Sĩ Văn Khấn, Các Bài Khấn âm Hán, Văn Khấn Nôm, Văn Khấn Khi Lễ Đền, Văn Khấn ở Đền, Bài Khấn Khi Đi Đền, Văn Khấn ô Địa, Văn Khấn 2/16, Con Quý Vị Gặp Khó Khăn Khi Đọc?, Văn Khấn 2 Tết, Văn Khấn ở Phủ Tây Hồ, Văn Khấn ô Táo, Bài Khấn Lễ, Bài Khấn Lễ ăn Hỏi, Bài Văn Khấn Tẩy Uế, Bài Khấn Xin Sửa Mộ, Văn Khấn 3.3, Bài Khấn Yên Tử, Văn Khấn 3 Tết, Bài Khấn Mẫu âu Cơ, Bài Khấn Mẫu, Bài Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn 27/7, Bài Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn 23, Bài Khấn Lễ Đổ Mái Nhà, Bài Khấn Lễ Đền, Văn Khấn ô Thần Tài, Bài Khấn ở Nhà, Bài Khấn Sửa Nhà, Văn Khấn Ban Tam Bảo, Bài Khấn Tại Yên Tử, Bài Khấn Tam Bảo, Bài Khấn Thần Tài Thổ Địa, Văn Khấn 2 ông Thần Tài, Bài Khấn Rằm Tại Nhà, Bài Khấn Rằm, Văn Khấn Cô 6, Bài Khấn Ra Mộ, Văn Khấn Cô 9, Văn Khấn 5.5, Văn Khấn Cô Bơ, Bài Khấn Tại Đền, Văn Khấn Bán Nhà, Văn Khấn Ban Mẫu, Bài Khấn Sửa Mộ, Bài Khấn Sửa Bếp, Văn Khấn ăn Hỏi, Bài Khấn Tạ Đất Đầu Năm, Văn Khấn An Vị, Văn Khấn An Vị Bàn Thờ, Bài Khấn Sao Mộc Đức, Văn Khấn An Vị Bàn Thờ Thần Tài, Bài Khấn Tạ Mộ, Văn Khấn âm Hán, Văn Khấn An Vị Thần Tài Thổ Địa, Văn Khấn Bà Cô Tổ, Bài Khấn Tạ Đất, Bài Khấn Tứ Phủ, Bài Khấn ông Táo, Văn Khấn Đổ Mái, Văn Khấn Đức ông, Văn Khấn Em Bé Đỏ, Bài Khấn Vào Hè, Văn Khấn Giỗ, Văn Khấn Giỗ Bố, Bài Khấn ông Địa Thần Tài, Văn Khấn Giỗ Cụ, Văn Khấn Giỗ Đầu, Văn Khấn Hà Bá,

Văn Khấn Hạ Bàn Thờ, Văn Khấn 30 Tết, Bài Khấn Xin Bán Nhà, Văn Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn Lễ Tạ Đất, Văn Khấn M 1, Văn Khấn Mẫu, Văn Khấn Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Mẫu Mẹ âu Cơ, Bài Khấn Xin Con, Văn Khấn 3/3 Tại Mộ, Bài Khấn Xin Lộc, Bài Khấn Xin Sám Hối, Văn Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Lễ Mẫu, Bài Khấn Xây Nhà, Bài Khấn Vào Nhà Mới, Văn Khấn Hạ Lễ, Bài Khấn ở Đền Mẫu, Bài Khấn ở Đền, Văn Khấn Hán Nôm, Văn Khấn 49, Văn Khấn 4 Phủ, Bài Khấn ở Ban Tam Bảo, Văn Khấn Khi Đi Đền, Bài Khấn Nôm, Văn Khấn Khi Đi Phủ Tây Hồ, Văn Khấn Lầu Cô Lầu Cậu, Bài Khấn Mở Cửa Mã, Văn Khấn 3/3, Ca Sĩ Văn Khấn, Các Bài Khấn âm Hán, Văn Khấn Nôm, Văn Khấn Khi Lễ Đền, Văn Khấn ở Đền, Bài Khấn Khi Đi Đền, Văn Khấn ô Địa, Văn Khấn 2/16, Con Quý Vị Gặp Khó Khăn Khi Đọc?, Văn Khấn 2 Tết, Văn Khấn ở Phủ Tây Hồ, Văn Khấn ô Táo, Bài Khấn Lễ, Bài Khấn Lễ ăn Hỏi, Bài Văn Khấn Tẩy Uế, Bài Khấn Xin Sửa Mộ, Văn Khấn 3.3, Bài Khấn Yên Tử, Văn Khấn 3 Tết, Bài Khấn Mẫu âu Cơ,

Đền Mẫu Âu Cơ Phú Thọ

Đền Mẫu Âu Cơ ở Phú Thọ tọa lạc tại xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa. Đây là một công trình lịch sử văn hóa đặc biệt, gắn liền với hình tượng Mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng trong một bọc trăm trứng, vốn đã ghi tạc trong tâm trí và tình cảm của các thế hệ người Việt.

Tục truyền, ngày nàng Âu Cơ chào đời ở động Lăng Xương (nay thuộc huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) có mây lành che chở, hương thơm tỏa ngát. Lớn lên, nàng xinh đẹp, thông minh hơn người, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, lại tinh thông âm luật. Về sau kết duyên với Lạc Long Quân (con trai của Kinh Dương Vương), nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trứng, nở thành một trăm người con. Khi các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với mẹ Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói xong, Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển.

Mẹ Âu Cơ đưa 50 con lên non, đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, khai phá rừng hoang. Một ngày, đi qua vùng đất Hiền Lương, nơi có núi cao, sông dài, cảnh vật hữu tình, Mẹ liền cho khai hoang, dạy dân cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Khi trang ấp đã tươi đẹp, Mẹ đi tiếp đến vùng đất mới. Sau này, Mẹ trở về Hiền Lương, gắn bó suốt phần đời còn lại với nơi này. Ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, Mẹ cùng các tiên nữ bay về trời, để lại dưới gốc đa dải yếm lụa. Tại đó, nhân dân trong vùng đã dựng lên Đền Mẫu Âu Cơ, đời đời tưởng nhớ công đức Mẹ Âu Cơ.

– Trong 50 người con theo Mẹ Âu Cơ, người con đầu lên nối ngôi vua, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời vua Hùng và trị vì đất nước trong 2621 năm, trở thành tổ tiên của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử tồn tại mấy ngàn năm, đền thờ Mẫu Âu Cơ đã ba lần được các triều đại nhà nước Việt Nam sắc phong. Lần thứ nhất dưới triều vua Lê Thánh Tông, năm 1465 vua đã ra chiếu chỉ phong thần, cấp tiền, tôn tạo Đền Mẫu Mẹ Âu Cơ, giao cho nhân dân xã Hiền Lương thờ phụng. Thế kỷ 15, triều đình Hậu Lê đã phong sắc và trùng tu đền. Đến thế kỷ 19, nhà Nguyễn một lần nữa sắc phong Đền Thánh Mẫu Âu Cơ.

– Năm 1991, đền Mẫu Âu Cơ ở Hạ Hòa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Ngôi đền nằm ẩn dưới gốc đa cổ thụ phủ tán xum xuê, mặt quay về hướng chính nam, bên tả có giếng Loan, bên hữu có giếng Phượng, phía trước có núi Giác đẹp như một án thư, sau lưng sông Hồng uốn khúc như rồng thiêng bao bọc. Tuy không đồ sộ nhưng Đền Quốc Mẫu Âu Cơ Phú Thọ có giá trị cao về mặt nghệ thuật kiến trúc.

– Đền gồm năm gian hình chữ nhất (-), cột gỗ lom, mái lợp ngói vẩy. Bên trong là pho tượng Quốc Mẫu Âu Cơ cao 0.93m đặt trên ngai vị, hai tay đặt lên đầu gối, chân đi hài cong, đầu đội mũ lấp lánh kim cương, dáng hình hiền hậu và thanh tú. Toàn bộ tượng và ngai được đặt trong một khám cao 1.82m, xung quanh trạm trổ tùng, cúc, mai và rồng chầu mặt nguyệt. Ngoài ra, các phần kiến trúc bằng gỗ trong Đền đều được chạm trổ cầu kỳ, tinh tế…

Mùa xuân cũng là lúc người dân Hiền Lương rục rịch tập tế nam, tế nữ, rước kiệu, chuẩn bị lễ vật… cho ngày “Tiên giáng”. Và du khách thập phương lại cùng nhau hành hương về đất Tổ, hòa mình vào không khí nhộn nhịp của lễ hội.

Ngày lễ chính là ngày “Tiên giáng” mùng 7 tháng Giêng hàng năm, và kéo dài trong ba ngày liên tiếp. Từ xưa, người dân trong vùng đã có câu ca lưu truyền: Mùng bảy trong tiết tháng Giêng, dân Hiền lễ tế trống chiêng vang trời…

– Khai hội Đền Mẫu Âu Cơ Hạ Hòa Phú Thọ là lễ tế Thành Hoàng ở đình, đội tế toàn nam giới. Sau đó, 8 cô gái mặc đồng phục sẽ uyển chuyển rước cỗ kiệu bát cống sơn son thếp vàng theo nhịp trống từ đình vào đền. Đi đầu đám rước là những lá cờ thần, sau kiệu là những vị chức sắc mặc áo dài khăn xếp, rồi đến dòng người trẩy hội.

– Tiếp đến là lễ tế nữ do 12 cô gái thanh tân, có nhan sắc và học vấn thực hiện. Các thiếu nữ đều mặc áo dài, đầu đội khăn kim tuyến, chân đi hài thêu, thắt lưng lụa, riêng chủ tế mặc trang phục hoàn toàn màu đỏ. Lễ vật dâng lên Mẫu không quá cầu kỳ, đều là cỗ chay, ngũ quả, tiền giấy… Trong đó có bánh truyền thống của người Hiền Lương, làm từ bột nếp hảo hạng và mật ong, được cắt thành từng khoanh như đốt tre, với 100 cầu bánh ngọt tượng trưng cho lễ vật của 100 người con dâng lên mẹ.

– Trong các ngày diễn ra lễ hội, trước sân đền và tại đình làng còn có nhiều trò chơi dân gian như: đu tiên, cướp cờ, đánh phết, hát ghẹo, hát xoan… thu hút sự tham gia của người dân địa phương lẫn du khách hiếu kỳ. Đến ngày cuối là diễn ra lễ rước kiệu từ đền trở về đình, và kết thúc lễ hội.

Bên cạnh lễ chính “Tiên giáng”, lễ hội trong năm ở khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ Phú Thọ còn có ngày “Tiên thăng” 25 tháng chạp, ngày 10-11 tháng hai, ngày 12 tháng ba, ngày 13 tháng tám âm lịch.

Cập nhật thông tin chi tiết về Festival Biển 2011: Lễ Giỗ Mẹ Âu Cơ. trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!